1) Cơ sở pháp lý. Tội trốn thuế được quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là 'Bộ luật Hình sự') như sau: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến Sau đây là mẫu Luận văn thạc sĩ Luật học với đề tài luận văn là Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam. Hy vọng đề tài luận văn thạc sĩ này sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu tham khảo khi viết luận văn tốt nghiệp của mình. Một số tài liệu có phí, các bạn xem thêm nội dung dưới bài viết để Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT. Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0909232620. Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT. Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0917.193.864. Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu tại TPHCM, HAY. Dịch vụ Kiến nghị điều tra việc trốn thuế . Đáng chú ý, Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo Bộ Công an điều tra, làm rõ những vụ việc mua bán nguyên liệu của doanh nghiệp tư nhân Tuấn Dung có dấu hiệu của tội trốn thuế. Ngày 20/10, Thanh tra Chính phủ (TTCP) ban hành thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành pháp luật trong quản lý, sử dụng Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo Bộ Công an điều tra vụ việc mua bán nguyên liệu thuốc lá có dấu hiệu của tội trốn thuế. Sau đây là mẫu Luận văn thạc sĩ Ngành luật với đề tài luận văn là Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam. Hy vọng đề tài luận văn thạc sĩ này sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu tham khảo khi viết luận văn tốt nghiệp của mình. Một số tài liệu có phí, các bạn xem thêm nội dung dưới bài viết để U8uyB. Tội trốn thuế được xếp vào nhóm các tội xâm phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm quy định tại chương XVIII Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017. 1 Cơ sở pháp lýTội trốn thuế được quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 sau đây gọi tắt là 'Bộ luật Hình sự' như sau “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ đồng đến dưới đồng hoặc dưới đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm...đ Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm".2 Dấu hiệu pháp lý của tội trốn thuế - Khách thể của tội phạm Tội trốn thuế xâm phạm chính sách thuế của Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực, làm thất thu ngân sách Nhà nước. - Mặt khách quan của tội phạm Người phạm tội có hành vi trốn thế. Hành vi trốn thuế có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn như không đăng kí, kê khai; kê khai gian dối, lập hoá đơn chứng từ giả, làm sai lệch sổ sách kế toán… với mục đích để không phải nộp thuế hoặc nộp với mức thấp hơn. Hành vi trốn thuế chỉ bị coi là tội phạm khi số tiền trốn từ 100 triệu đồng trở lên hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng người trốn thuế đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án và chưa được xoá án tích về hành vi trốn thuế hoặc về một trong các hành vi định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 233, 236 và 238 Bộ luật Hình sự. - Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. - Mặt chủ quan của tội phạm Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. 3 Hình phạt đối với tội trốn thuế Đối với cá nhân, điều 200 Bộ luật Hình sự quy định 3 khung hình phạt - Khung cơ bảnphạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. - Khung tăng nặng Theo khoản 2phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm Theo khoản 3phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. - Hình phạt bổ sungphạt tiền từ đồng đến đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài với pháp nhân, hình phạt đối với tội trốn thuế quy định tại Khoản 5 Điều 200- Khung cơ bảnphạt tiền từ đồng đến Khung tăng nặngTheo điểm b khoản 5phạt tiền từ đồng đến đồngTheođiểm c khoản 5phạt tiền từ đồng đến đồnghoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 trường hợp vi phạm nghiêm trọnghoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả thì pháp nhân sẽ bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.+- Hình phạt bổ sungPháp nhân thương mại có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 viết được thực hiện bởi Luật gia Nguyễn Sỹ Việt - Phòng Tranh tụng của Công ty Luật TNHH thêmGiới thiệu về Công ty Luật TNHH EverestDịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH EverestHoạt động vì cộng đồng của Công ty Luật TNHH EverestKhuyến nghị của Công ty Luật TNHH EverestBài viết trong lĩnh vực hình sự nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail [email protected]. TTO - Bị can Mai Phan Lợi, chủ tịch hội đồng khoa học Trung tâm truyền thông giáo dục cộng đồng MEC, bị viện kiểm sát truy tố với cáo buộc trốn thuế gần 2 tỉ đồng. Ông Mai Phan Lợi - Ảnh FB nhân vậtViện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội vừa ban hành cáo trạng truy tố bị can Mai Phan Lợi về tội trốn thuế. Bị can Bạch Hùng Dương, nguyên giám đốc MEC, bị truy tố cùng tội danh. Viện kiểm sát đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án sang Tòa án nhân dân TP Hà Nội để xét xử các bị Lợi bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội khởi tố bị can và bắt tạm giam từ đầu tháng 7. Bị can là chủ tịch hội đồng sáng lập, chủ tịch hội đồng khoa học Trung tâm MEC; từng là phó tổng thư ký tòa soạn, trưởng văn phòng đại diện một cơ quan báo chí phía Nam tại Hà Nội. Ông Lợi từng gây bức xúc dư luận vì tạo một thăm dò trên trang Facebook Diễn đàn Nhà báo trẻ về việc máy bay Casa 212 rơi khi làm nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn và bị thu hồi thẻ nhà báo. Theo cáo trạng, Trung tâm truyền thông giáo dục cộng đồng MEC thành lập từ năm 2012 theo quyết định của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Doanh thu của trung tâm là các khoản tiền tài trợ hoặc nhận được từ các tổ chức trong và ngoài nước thanh toán hợp đồng thực hiện công việc theo thỏa năm 2012 đến tháng 3-2021, MEC đã phát sinh doanh thu nhận tổng số tiền hơn 19 tỉ đồng. Mỗi lần trung tâm nhận được tiền tài trợ của các tổ chức, ông Lợi đều chỉ đạo giám đốc là Bạch Hùng Dương ký các chứng từ rút tiền và chỉ đạo nhân viên không lập hóa đơn giá trị gia tăng các dịch vụ, công việc đã thực hiện. Bị can Lợi cũng chỉ đạo cấp dưới không thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ theo quy định pháp luật, không lập báo cáo tài chính, không nộp tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp… Hành vi của ông Mai Phan Lợi bị cơ quan truy tố cáo buộc "nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng". Kết quả điều tra xác định tổng số tiền bị can Mai Phan Lợi cùng đồng phạm trốn thuế gần 2 tỉ đồng. "Trong vụ án này, bị can Mai Phan Lợi thực hiện hành vi phạm tội với các vai trò là người chủ mưu, cầm đầu, trực tiếp chỉ đạo cho nhân viên dưới quyền không thực hiện kê khai nộp thuế, trực tiếp chiếm hưởng toàn bộ số tiền trốn thuế", cáo trạng nêu. Bị can Bạch Hùng Dương bị viện kiểm sát xác định đã thực hiện chỉ đạo của Mai Phan Lợi không kê khai nộp thuế. Do vậy Dương phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị can Lợi trốn nghị thu hồi giấy phép hoạt động của Trung tâm MECTheo cáo trạng, ông Mai Lương Việt là đồng sáng lập trung tâm nhưng không tham gia điều hành, không liên quan đến việc ông Mai Phan Lợi trốn thuế nên không có căn cứ xử lý hình sự. Bà Nguyễn Thúy Vân cũng là cổ đông sáng lập, làm giám đốc trung tâm từ năm 2012-2014. Bà Vân bị xác định có trách nhiệm liên đới với số tiền trốn thuế thời gian bà làm giám đốc hơn 110 triệu đồng. Hành vi của bà Vân có dấu hiệu đồng phạm tội trốn thuế. Tuy nhiên viện kiểm sát nhận định hành vi của bà Vân đã kết thúc vào tháng 1-2014, đến nay hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên cơ quan điều tra không truy cứu là có căn cứ. Viện kiểm sát cũng kiến nghị Bộ Khoa học và công nghệ, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam thu hồi giấy chứng nhận thành lập và giấy phép hoạt động của Trung tâm MEC. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ TỘI TRỐN THUẾNgày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2021/QĐHPTST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo1. Nguyễn Thanh B, sinh năm 1979; tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú Tổ 9, khu phố TL, thị trấn C, huyện C1, tỉnh B Phước; nghề nghiệp Môi giới bất động sản; trình độ học vấn 01/12; dân tộc Kinh; tôn giáo Thiên chúa; giới tính Nam; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L đã chết và con bà Tr Thị X đã chết; có vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1982; bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án Không; tiền sự Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/5/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên Nguyễn Văn A, sinh năm 1970; tại tỉnh Hải Dương; nơi cư trú Ấp 2, thị trấn C, huyện C1, tỉnh B Phước; nghề nghiệp Kinh doanh tự do; trình độ học vấn 5/12; dân tộc Kinh; giới tính Nam; tôn giáo Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Đức D1 đã chết và con bà Dương Thị T1 đã chết; có vợ PhA Thị H, sinh năm 1973; bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án Không; tiền sự Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/5/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên Thái Thị T, sinh năm 1969; tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú Ấp Đ, xã M, huyện D, tỉnh B Dương; nghề nghiệp Nội trợ; trình độ học vấn 6/12; dân tộc Kinh; giới tính Nam; tôn giáo Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Thái Văn Đ1 đã chết và con bà Tô Thị M, sinh năm 1941; có chồng Lê Xuân T2, sinh năm 1971; bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1994; tiền án Không; tiền sự Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/5/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên Nguyễn Hữu V, sinh năm 1973; tại tỉnh Hải Dương; nơi cư trú Tổ 9, ấp 3A, xã M2, huyện C, tỉnh B Phước; nghề nghiệp Làm nông; trình độ học vấn7/12; dân tộc Kinh; giới tính Nam; tôn giáo Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu V1 đã chết và con bà Đào Thị N đã chết; có vợ Mạc Thị C, sinh năm 1975 bị cáo trong vụ án; bị cáo có 04 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2011; tiền án Không; tiền sự Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/5/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên Mạc Thị C, sinh năm 1975; tại tỉnh Hải Dương; HKTT Tổ 7, ấp 4, xã T2, huyện H, tỉnh B Phước; chỗ ở Tổ 9, ấp 3A, xã M2, huyện C, tỉnh B Phước; nghề nghiệp Làm nông; trình độ học vấn 6/12; dân tộc Kinh; giới tính Nam; tôn giáo Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Mạc Duy T3, sinh năm 1950 và con bà Nguyễn Thị C1, sinh năm 1953; có chồng Nguyễn Hữu V, sinh năm 1973 bị cáo trong vụ án; bị cáo có 04 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2011; tiền án Không; tiền sự Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/5/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quA đến vụ án Ông Đinh Xuân H1, sinh năm 1978; địa chỉ Khu phố 1, thị trấn C, huyện CT, tỉnh Bình Ông Đào Thanh V3, sinh năm 1972; địa chỉ Số nhà 174, ấp 3B, xã M, huyện C, tỉnh Bình Ông Đào Xuân V4, sinh năm 1967; địa chỉ Tổ 6, ấp 3B, xã M, huyện C, tỉnh Bình Bà Vũ Thị L, sinh năm 1987; địa chỉ Số 183/39 HL, phường P, thành phố TM, tỉnh Bình H1, ông V3, ông V4, bà L có đơn xin vắng Người làm chứng Bà Phan Thị HTvắng mặt.NỘI DUNG VỤ ÁNTheo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sauNguyễn Thanh B, Nguyễn Hữu V, Nguyễn Văn A, Thái Thị T cùng ông Đào Thanh V3, sinh năm 1972, hộ khẩu thường trú Số 174, ấp 3B, xã M, huyện C, tỉnh B Phước; ông Đào Xuân V4, sinh năm 1967, hộ khẩu thường trú Tổ 6, ấp 3B, xã M, huyện C, tỉnh B Phước và ông Đinh Xuân H1, sinh năm 1978, hộ khẩu thường trú Khu phố 1, thị trấn C, huyện CT, tỉnh B Phước có mối quA hệ quen biết với nhau. Mạc Thị C là vợ của Nguyễn Hữu đất số 17, tờ bản đồ số 06, có diện tích m2, tọa lạc tại xã M, huyện D, tỉnh B Dương gọi tắt là thửa đất số 17 do vợ chồng V và C cùng ông V3, ông V4 góp tiền nhận chuyển nhượng chung và thống nhất để V đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất viết tắt là GCNQSDĐ. Sau đó, ông V4 giao cho ông H1 làm môi giới, tìm khách hàng để chuyển nhượng thửa đất có nhu cầu nhận chuyển nhượng đất để đầu tư nên B, A và T cùng góp tiền để nhận chuyển nhượng đất và giao cho B tìm nguồn đất. Tháng 4/2019, qua tìm hiểu thì B biết thông tin ông H1 đang chào chuyển nhượng thửa đất số 17. B đã đến gặp ông H1 và hai bên thỏa thuận, thống nhất giá chuyển nhượng của thửa đất trên là đồng. Khi B đồng ý nhận chuyển nhượng đất, ông H1 đã điện Tại cho ông V4 đến ký hợp đồng và nhận tiền đặt cọc, nhưng ông V4 đề nghị ông H1 đại diện ký hợp đồng và nhận tiền cọc thay ông V4. Ông H1 cũng nói cho B biết thửa đất trên là của ông V4, ông H1 chỉ là người môi 19/4/2019, ông H1 ký Hợp đồng đặt cọc với B về việc sang nhượng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 17, theo nội dung hợp đồng thì giá chuyển nhượng của thửa đất số 17 là đồng, hợp đồng được B và ông H1 ký tên, lăn tay xác nhận. B đã đưa ông H1 số tiền đồng để đặt cọc. Đến ngày 22/4/2019, B tiếp tục đưa ông H1 số tiền đồng thanh toán tiền nhận chuyển nhượng thửa đất số 17. Các lần đưa tiền được thể hiện tại Hợp đồng đặt cọc ngày 19/4/2019 có chữ ký xác nhận của B và ông H1. Sau khi nhận tiền, ông H1 đã đưa toàn bộ số tiền đồng đã nhận cho ông V4 và ông H1 được ông V4 trả tiền phí môi giới 2% giá trị chuyển nhượng. Đến ngày 16/5/2019, B đến nhà ông V4 để thanh toán số tiền đồng, việc giao nhận tiền được lập thành Hợp đồng nhận tiền đặt cọc đất lần 07/6/2019, vợ chồng V và C cùng với A, T và B đến Ủy ban nhân dân xã M, huyện D để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chính thức. Do B góp tiền ít hơn A và T nên cả ba người thống nhất để A và T đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng và đứng tên GCNQSDĐ, còn B có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan chức năng để hoàn thiện thủ tục cấp GCNQSDĐ. Tại đây, B đã thỏa thuận với V và C là do bên mua chịu trách nhiệm nộp các loại thuế, lệ phí trước bạ nên yêu cầu ghi hạ thấp số tiền chuyển nhượng trên hợp đồng xuống để giảm tiền thuế, lệ phí trước bạ phải nộp cho Nhà nước, V và C đồng ý. Hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng giá trị chuyển nhượng của thửa đất số 17 do vợ chồng V và C chuyển nhượng cho A và T là đồng. Khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Vỹ, C, A và T đều được đọc lại nội dung hợp đồng. Sau đó, B đã đưa số tiền đồng cho vợ chồng V và C để thanh toán, trong đó thanh toán cho vợ chồng V số tiền nhận chuyển nhượng đất còn lại là đồng và nhờ V đem trả nợ cho ông V4 số tiền đồng do B đã vay của ông V4 trước Vvà C khai Tháng 4/2019, V và ông V4 nói có người mua thửa đất số 17 với giá đồng/ha, tương đương tổng số tiền đồng nên V và C đã đồng ý bán với giá nêu trên. Tại thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng, V và C biết giá chuyển nhượng thực tế của thửa đất số 17 là đồng nhưng do trước đó đã đồng ý chuyển nhượng thửa đất số 17 là đồng nên không có ý kiến gì và đồng ý tiếp tục ký hợp đồng chuyển A, T và B khai B thông báo cho A và T biết là có người bán thửa đất số 17 với giá là đồng nên A, T đã đồng ý mua thửa đất số 17 với giá này. Đối với số tiền chênh lệch đồng từ việc mua thửa đất số 17 là do B tự ý nâng giá chuyển nhượng lên đồng là để hưởng lợi số tiền chênh lệch quả xác minh tại Bộ phận một cửa huyện Dầu Tiếng - Chi cục thuế Bến Cát xác định Do giá trị chuyển nhượng thửa đất số 17 nêu trong hợp đồng thấp hơn khung giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh B Dương bA hành nên Chi cục thuế Bến Cát xác định giá trị của thửa đất số 17 là đồng để làm căn cứ xác định tiền thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ. Chi cục thuế đã tính tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng, lệ phí trước bạ là đồng. Ngày 01/7/2019, A và T đã nộp đủ các khoản thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ nêu trên. Ngày 20/7/2019, Sở tài nguyên và môi trường tỉnh B Dương đã cấp GCNQSDĐ số CQ 131749 số vào sổ CS03226 đối với thửa đất số 17 cho bà Thái Thị T đứng Kết luận giám định số 31/GĐ - PC09 ngày 10/3/2021 và Kết luận giám định số 56/GĐ - PC09 ngày 12/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công A tỉnh B Dương kết luận Chữ ký, chữ viết, dấu vân tay trên “Hợp đồng đặt cọc”, “Hợp đồng nhận tiền đặt cọc” và “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với thửa đất số 17 nêu trên là của Vỹ, C, A, T và B ký, viết và lăn Kết luận giám định ngày 27/4/2021 của Cục thuế tỉnh B Dương xác định số tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo giá chuyển nhượng đồng là đồng và Công văn số 8971/CTBDU – HKDCN ngày 20/5/2021 của Cục thuế tỉnh Bình Dương xác định số tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo giá chuyển nhượng đồng là cứ tài liệu, chứng cứ thu thập được, xác định số tiền thuế thu nhập cá nhân mà B, V, C, A và T phải nộp theo giá chuyển nhượng đồng là đồng số tiền thuế phải nộp là đồng – số tiền thuế đã nộp là đồng. Đối với số tiền đồng mà B có được từ việc nâng giá trị chuyển nhượng đối với thửa đất số 17 thì số tiền thu nhập cá nhân B phải nộp là đồng đồng x 2%, số tiền này chưa đủ cấu thành tội trốn thuế nên cơ quA điều tra không đề cập xử lý tội trốn thuế đối với B. Ngày 28/5/2021, B đã tự nguyện nộp số tiền đồng vào tài khoản Cơ quan điều tra mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh Bình Dương để khắc phục hậu Cáo trạng số 26/CT-VKSBD-P1 ngày 29/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh B, Nguyễn Văn A, Thái Thị T, Nguyễn Hữu V và Mạc Thị C về tội “Trốn thuế” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 200 Bộ luật Hình phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương giữ nguyên quan điểm và quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Thanh B, Nguyễn Văn A, Thái Thị T, Nguyễn Hữu V và Mạc Thị C về tội “Trốn thuế” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 200 Bộ luật Hình sự và đề nghị- Về hình phạt Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 200; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, 17, 35, 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt+ Bị cáo Nguyễn Thanh B từ đồng đến đồng.+ Bị cáo Nguyễn Văn A từ đồng đến đồng.+ Bị cáo Thái Thị T từ đồng đến đồng.+ Bị cáo Nguyễn Hữu V từ đồng đến đồng.+ Bị cáo Mạc Thi C từ đồng đến Về biện pháp tư pháp Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp nhân sách Nhà nước số tiền trốn thuế đồng hai trăm năm mươi bảy triệu hai trăm tám mươi bảy nghìn hai trăm đồng.Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nh hình phạt để các bị cáo sớm có điều kiện cải tạo làm người công dân tốt, có ích cho gia đình và xã ĐỊNH CỦA TÒA ÁN Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau[1] Về tố tụng Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công A tỉnh Bình Dương và Điều tra viên, Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương và Kiểm sát viên cùng Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và không bị ai khiếu nại gì về việc tiến hành các hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ đối với vụ án nên toàn bộ hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ có trong hồ sơ đều hợp pháp.[2] Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, cụ thể Do có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đầu tư nên B, A và T cùng góp tiền để nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông V và bà T. Các bị cáo đã thống nhất ghi giảm trị giá thực của ph n đất có diện tích m2, thuộc thửa đất số 17, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại xã M, huyện D, tỉnh Bình Dương từ số tiền đồng tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng xuống còn đồng nhưng Chi cục thuế Bến Cát xác định giá trị của thửa đất số 17 là đồng để làm căn cứ xác định tiền thuế thu nhập cá nhân tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng để được hưởng số tiền thuế chênh lệch là đồng. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa là ph hợp với lời khai trong quá trình điều tra và với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên qua cùng các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do đó, Cáo trạng số 26/CT-VKSBD-P1 ngày 29/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố đối với các bị cáo B, A, T, V và C về tội “Trốn thuế” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 200 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.[3] Hành vi của các bị cáo tuy đơn giản nhưng đã xâm phạm đến trật tự quản lý về thuế do Nhà nước thống nhất quản lý, đã có hành vi sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp để xác định sai số tiền thuế phải nộp, làm cho quần chúng nhân dân mất lòng tin vào chính quyền khi để tệ nạn xã hội xảy ra tại địa phương mình quản lý.[4] Xét chủ thể, động cơ và mục đích phạm tội của các bị cáo thấy rằng, các bị cáo đều là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ năng lực để nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, thế nhưng các bị cáo bất chấp hậu quả để thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Thực hiện tội phạm với mục đích hưởng lợi tiền chênh lệch từ việc khai báo thuế không trung thực.[5] Xét hành vi khách quan của tội phạm thì vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, không có tổ chức chặt chẽ cho từng thành viên. Tuy nhiên, để cá thể hóa hình phạt cho từng bị cáo thì phải xem xét vai trò cụ thể của mỗi bị cáo khi thực hiện tội phạm[ Đối với bị cáo Nguyễn Thanh B Bị cáo có vai trò là cầm đầu, lôi kéo các bị cáo khác vào con đường phạm tội. Bị cáo không đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng là người đứng ra thỏa thuận, vạch ra cách thức thực hiện từ việc ghi giảm trị giá thực tế chuyển nhượng từ số tiền đồng tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng xuống còn đồng nhưng Chi cục thuế Bến Cát xác định giá trị của thửa đất số 17 là đồng để làm căn cứ xác định tiền thuế thu nhập cá nhân tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng để được hưởng số tiền thuế chênh lệch là đồng. Đồng thời bị cáo thông báo khống cho các bị cáo A, T giá thực tế chuyển nhượng từ số tiền đồng lên đồng để được hưởng số tiền chênh lệch và chiếm đoạt số tiền thuế lẽ ra phải nộp cho Nhà nước là đồng. Bị cáo phạm tội với vai trò chủ mưu và là người hưởng lợi trực tiếp từ số tiền trốn thuế nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao nhất so với các bị cáo khác theo quy định của pháp luật.[ Đối với bị cáo Nguyễn Văn A và bị cáo Thái Thị T Hai bị cáo không phải là kẻ cầm đầu nhưng là người trực tiếp thực hiện tội phạm, thống nhất với các bị cáo khác để ghi giảm trị giá thực tế chuyển nhượng từ số tiền đồng tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng xuống còn đồng nhưng Chi cục thuế Bến Cát xác định giá trị của thửa đất số 17 là đồng để làm căn cứ xác định tiền thuế thu nhập cá nhân tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng để được hưởng số tiền thuế chênh lệch là đồng. Hai bị cáo phạm tội với vai trò thực hành và là người hưởng lợi trực tiếp từ số tiền trốn thuế nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với hai bị cáo V và C theo quy định của pháp luật.[ Đối với bị cáo Nguyễn Hữu V và bị cáo Mạc Thi C Hai bị cáo mặc d không được hưởng lợi từ số tiền trốn thuế nhưng là đồng phạm giúp sức, người trực tiếp thực hiện tội phạm do thống nhất với các bị cáo khác để ghi giảm trị giá thực tế chuyển nhượng từ số tiền đồng tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng xuống còn đồng nhưng Chi cục thuế Bến Cát xác định giá trị của thửa đất số 17 là đồng để làm căn cứ xác định tiền thuế thu nhập cá nhân tiền thuế thu nhập cá nhân phải nộp là đồng, tạo điều kiện cho các bị cáo B, A và T được hưởng số tiền thuế chênh lệch là đồng. Hai bị cáo phạm tội với vai trò thực hành và là người giúp sức tích cực cho các bị cáo khác hưởng lợi từ số tiền trốn thuế nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.[6] Ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố cũng như mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.[7] Để đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà đặc biệt là tội phạm vi phạm trật tự quản lý về thuế, tài chính mà cụ thể là sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp để xác định sai số tiền thuế phải nộp nên cần phải xử lý thật nghiêm để các bị cáo có điều kiện được giáo dục và cải tạo thành người công dân tốt sau này cũng như răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.[8] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như Các bị cáo đã tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền chiếm đoạt khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.[9] Các bị cáo đã bị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, nên Hội đồng xét xử đã căn nhắc đến các tình tiết tăng nặng, giảm nh cũng như mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 4 Điều 200 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.[10] Đối với ông Đào Thanh V3 và ông Đào Xuân V4 là những đồng sở hữu và sử dụng đất với vợ chồng bị cáo V và C, có chia trị giá tài sản khi chuyển nhượng thửa đất số 17 nói trên, tuy nhiên ông V3 và ông V4 không biết việc thỏa thuận cũng không có thống nhất hạ giá trị chuyển nhượng trên hợp đồng chuyển nhượng của các bị cáo B, A và T để trốn thuế và không ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng nên hành vi của ông V3 và ông V4 không cấu thành tội “Trốn thuế” theo quy định.[11] Về trách nhiệm dân sự, biện pháp tư pháp Ngày 28/5/2021, bị cáo B đã thay mặt các bị cáo A, T tự nguyện nộp tổng số tiền đồng trốn thuế vào tài khoản Cơ quan cảnh sát điều tra – Công A tỉnh Bình Dương mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh B Dương để khắc phục hậu quả nên số tiền này sẽ được truy thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định.[12] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH- Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1, khoản 4 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 200; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 47; Điều 58 Bộ luật Hình sự;- Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;- Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bA thường vụ Quốc hội 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh B, Nguyễn Văn A, Thái Thị T, Nguyễn Hữu V và Mạc Thị C phạm tội “Trốn thuế”.- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B đồng ba trăm triệu đồng.- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A đồng một trăm năm mươi triệu đồng.- Xử phạt bị cáo Thái Thị T đồng một trăm năm mươi triệu đồng.- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu V đồng một trăm triệu đồng.- Xử phạt bị cáo Mạc Thị C đồng một trăm triệu đồng.Sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, nếu các bị cáo Nguyễn Thanh B, Nguyễn Văn A, Thái Thị T, Nguyễn Hữu V và Mạc Thị C không thi hành án đối với số tiền phạt nêu trên, thì hàng tháng các bị cáo còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành Biện pháp tư pháp Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình thu nộp nhân sách Nhà nước số tiền đồng hai trăm mười lăm triệu chín trăm tám mươi bảy nghìn hai trăm đồng theo ủy nhiệm chi lập ngày 02/7/2021 do Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu – Công A tỉnh B Dương chuyển vào tài khoản số của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Dầu Tiếng, tỉnh B Án phí hình sự sơ thẩm Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh B, Nguyễn Văn A, Thái Thị T, Nguyễn Hữu V và Mạc Thị C mỗi bị cáo phải nộp đồng hai trăm ngàn đồng.4. Về quyền kháng cáo Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy Thuế là khoản thu mà Nhà nước buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân nộp vào ngân sách nhà nước tuân theo các quy định của pháp luật. Trốn thuế là hành vi dùng thủ đoạn gian dốì để không phải nộp thuế hoặc để nộp thuế ít hơn mức thuế phải nộp. Trong bài viết dưới đây, Luật Trần và Liên Danh sẽ bình luận tội trốn thuế theo Bộ luật Hình sự mới nhất hiện nay để quý khách hiểu rõ hơn về tội này Quy định của pháp luật về tội trốn thuếPhân tích, bình luận tội trốn thuế BLHSDấu hiệu pháp lý của tội phạmKhách thể của tội phạm Mặt khách quan của tội phạmVề hình phạt Quy định của pháp luật về tội trốn thuế Tội trốn thuế được quy định tại Điều 200 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ đồng đến dưới đồng hoặc dưới đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm a Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật; b Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; c Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán; d Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn; đ Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; e Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; g Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; h Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; i Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm a Có tổ chức; b Số tiền trốn thuế từ đồng đến dưới đồng; c Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d Phạm tội 02 lần trở lên; đ Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trốn thuế với số tiền đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau a Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này trốn thuế với số tiền từ đồng đến dưới đồng hoặc từ đồng đến dưới đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng; b Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng; c Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; d Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; đ Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Tội trốn thuế là hành vi vi phạm quy định về quản lý thuế của nhà nước nhằm mục đích không nộp tiền thuế cho nhà nước mà đáng lẽ phải nộp. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm Khách thể của tội phạm Tội trốn thuế xâm phạm quy định của nhà nước về thuế, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước trong việc thu thuế. Mặt khách quan của tội phạm Tội trốn thuế được thực hiện ở một trong các hành vi sau – Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật; – Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; – Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán; – Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn; – Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; – Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; – Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; – Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này; – Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. Các hình vi trên chỉ cấu thành tội phạm trốn thuế nếu thuộc một trong các trường hợp sau -Trốn thuế với số tiền từ đồng đến dưới đồng -Trốn thuế dưới đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. bình luận tội trốn thuế Chủ thể tội phạm – Chủ thể của tội trốn thuế là cá nhân đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự hoặc là pháp nhân thương mại theo quy định của Bộ luật hình sự. – Theo khoản 1, Điều 2 Luật quản lý thuế 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, những đối tượng phải đóng thuế gồm Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế; Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật; Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế. Do đó chủ thể của tội trốn thuế thông thường là các cá nhân, tổ chức có hoạt động kinh doanh, buôn bán nhằm mục đích sinh lời, đặc biệt là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, là những người có trách nhiệm, quyền hạn trong doanh nghiệp. Những người ở các cơ quan liên quan như Hải quan, cơ quan giám định tiếp tay cho doanh nghiệp trốn thuế cũng có thể là chủ thể của tội này. Mặt chủ quan của tội phạm Hành vi trốn thuế được thực hiện với lỗi cố ý, cá nhân, pháp nhân phạm tội có ý thức chiếm đoạt số tiền thuế mà đáng lẽ phải nộp cho Nhà nước. Mục đích của người phạm tội là để không phải nộp thuế hoặc giảm số tiền thuế phải nộp xuống thấp hơn. Về hình phạt Điều 200 quy định 05 khung hình phạt -Người phạm tội quy định tại khoản 1 thi bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm; -Người phạm tội quy định tại khoản 2 thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm, nếu thuộc một trong các trường hợp saua Có tổ chức;b Số tiền trốn thuế từ đồng đến dưới đồng;c Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;d Phạm tội 02 lần trở lên; đ Tái phạm nguy hiểm. -Người phạm tội theo quy định tại khoản 3 thì thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, áp dụng đối với trương hợp trốn thuế với số tiền đồng trở lên. -Hình phạt bổ sung ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phầm hoặc toàn bộ tài sản. -Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội theo quy định tại khoản 5 +Pháp nhân thương mại bị phạt tiền từ đồng đến đồng nếu thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này trốn thuế với số tiền từ đồng đến dưới đồng hoặc từ đồng đến dưới đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; + Pháp nhân thương mại bị phạt tiền từ đồng đến đồng nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 2 Điều này, thì; +Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; +Pháp nhân thương mại Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; + Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Trên đây là các nội dung và bình luận tội trốn thuế bộ luật hình sự 2015, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

bình luận tội trốn thuế