Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 4: Quyết định giám đốc thẩm 05/2008/KDTM-GĐT ngày 03/6/2008 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa. Công ty KRV và Công ty TFS có ký với nhau Hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa, theo đó Công ty TFS sẽ giao
Các tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng tín dụng khá đa dạ trong đó những tranh chấp phổ biến là: Thứ nhất, Tranh chấp về việc áp dụng mức lãi suất cho vay: Trong tranh chấp này, các tổ chức tín dụng thì lập luận là lãi suất cho vay áp dụng theo quy định của Ngân
Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp HĐTD mang một số đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các
1 – Những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng. 1.1 – Khái niệm. 1.2 – Đặc điểm cơ bản của hợp đồng tín dụng. 2 – Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest: 5/5 - (1 bình chọn) Hợp đồng tín dụng là một loại hợp đồng rất thông dụng trong đời
Ngày 09/6/2007, bằng văn bản số 284/CV-PVFC-10 (BL.122), Công ty tài chính. DK đã khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng ra Tòa án yêu cầu xử. buộc Công ty xuất nhập khẩu in VN phải thanh toán cả gốc và lãi của hai hợp đồng tín. dụng số 97/2003/HĐTD-PVFC-10
Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thế H2 và một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Long H. Hủy Bản án sơ thẩm thẩm số 32/2021/DS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân
T2pQY7v.
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNGBẢN ÁN 04/2022/KDTM-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Bản án không thuộc trường hợp được công bố theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 03/2017/NQ-HĐTP và Công văn 144/TANDTC-PC năm 2017 Nguồn
Sau đây Equity Law Firm xin được tư vấn về nội dung sau VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Do tính chất bảo mật thông tin vụ án nên toàn bộ Thông tin cá nhân, Tên địa phương, Tên cơ quan hành chính đã được mã hóa I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN * Nội dung Ngân hàng TM TNHH MTV Đông Dương Nguyên Đơn trình bày Ngày 26/04/2014, Công ty TNHH Ansaka “Công ty Ansaka” và Ngân hàng TM TNHH MTV Đông Dương “Dongduong Bank” ký với nhau Hợp đồng tín dụng số 0008/2014/ ký ngày 26/2/2214, theo đó Công ty Ansaka vay Dongduong Bank VND, thời hạn vay 06 tháng kể từ ngày giải ngân đầu, mục đích vay để bổ sung vốn thanh toán tiền nhập hàng theo Hợp đồng kinh tế số 05/02/2014/HĐKT ngày 27/02/2014 giữa Công ty Ansaka và Công ty TNHH TM và DV SX Ngọc Phương, lãi suất 12%/năm; Lãi suất quá hạn Bằng 150% lãi suất cho vay tại thời điểm phát sinh khoản nợ quá hạn; lãi suất phạt chậm trả Bằng 150% lãi suất cho vay tại thời điểm phát sinh khoản nợ chậm trả. Hết thời hạn vay, Công ty Ansaka không trả nợ gốc và lãi trong hạn cho Dongduong Bank. Số tiền Công ty Ansaka còn nợ theo Hợp đồng tín dụng tạm tính đến ngày Dongduong Bank khởi kiện tạm tính đến ngày 01/06/2015 là VND, trong đó Nợ gốc VND, nợ lãi VND Để đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng Dongduong Bank và Công ty Ansaka ký hợp đồng cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay số ngày 28/02/2014 và Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 0016/2016/2014/HĐTC/ ngày 26 tháng 02 năm 2014 giữa bên nhận thế chấp DongduongBank PGD Lê Văn Lương và bên thế chấp ông Lê Văn Kháng, địa chỉ Số 02, ngõ 3, Ngô Gia Khảm, phường Yết Kiêu, quận Hà Bình, thành phố HT. Tài sản thế chấp gồm + Tài sản thứ nhất gồm 350 bình nước nóng ROSSI loại 15l, 20l, 30l theo hợp đồng kinh tế số 05-02/2014/HĐKT ngày 27/02/2014 giữa Công ty TNHH Ansaka và Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Sản xuất Ngọc Phương. Tổng là VND. + Tài sản thứ hai gồm Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của bên thứ 3 theo Giấy chứng nhận QSDĐ số BH 865245, số vào sổ cấp GCN CH- 0245 do UBND quận Hà Bình, thành phố HT cấp ngày 29/06/2012 cho ông Lê Văn Kháng và bà Phạm Thị Ngân ông Kháng đăng ký sang tên do thừa kế theo hồ sơ số 24378 ngày 19/11/2013, tại địa chỉ Số nhà 102 dãy A3 khu tập thể Công ty Máy kéo, phường Yết Kiêu, quận Hà Bình, thành phố HT. Tại phiên Tòa Dongduong Bank đề nghị Buộc Công ty Ansaka phải trả cho Dongduong Bank toàn bộ nợ gốc, nợ lãi tạm tính đến 15/10/2020 là VND trong đó Nợ gốc đồng, nợ lãi trong hạn đồng; Nợ trên gốc quá hạn đồng; Nợ trên lãi quá hạn đồng. Nếu Công ty không trả nợ thì đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi theo hợp đồng tín dụng cho đến ngày Công ty thanh toán được toàn bộ khoản vay. Trường hợp Công ty không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ Ngâny sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì Dongduong Bank có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để trả nợ cho Ngân hàng là Quyền sử dụng đất của ông Lê Văn Kháng. * Nội dung ông Lê Văn Kháng Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày Cuối năm 2013, đầu năm 2014 chị Lê Thị Thu Ngân con gái ông Kháng cần vay vốn để làm ăn; thông qua người quen của chị Ngân nên chị Ngân mới có quen biết với Công ty TNHH Ansaka và bàn bạc thống nhất ông Kháng đứng lên thế chấp tài sản là nhà đất tại số 102, dãy A3, khu tập thể Công ty Máy kéo, phường Yết Kiêu, quận Hà Bình, thành phố HT thế chấp cho Ngân hàng để Ngân hàng cho Công ty vay số tiền VND. Sau khi ông Kháng ký kết hợp đồng thế chấp cho Ngân hàng thì anh Trần Mạnh Thanh – Giám đốc công ty có cho chị Ngân vay số tiền VND hai bên có viết giấy vay tiền. Việc Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở của ông Kháng, ông không đồng ý vì ông không biết Dongduong Bank cho Công ty Ansaka vay bao nhiêu tiền. Nay ông Kháng đề nghị Dongduong Bank giải chấp tài sản nhà đất của ông và ông có trách nhiệm trả số tiền VND Công ty Ansaka cho chị Ngân vay. Đến tháng 5/2016 ông nhận được thông báo của Ngân hàng yêu cầu ông phải thực hiện thay nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay của Công ty Ansaka với tổng số tiền là VND. Ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết Hủy hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 0016/2014/HĐTC/ ký ngày 26/2/2014 và giải chấp tài sản nhà đất cho ông là 40m2 tại địa chỉ số 102, dãy A3 khu tập thể Công ty Máy kéo, phường Yết Kiêu, quận Hà Bình, thành phố HT theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BH 965245, số vào sổ cấp GCN CH-02045 do UBND quận Hà Bình, thành phố HT cấp ngày 29/06/2012 cho ông Lê Văn Kháng và bà Phạm Thị Ngân, đã đăng ký sang tên thành tài sản riêng của ông Kháng do nhận thừa kế theo hồ sơ số 24378 ngày 19/11/2013, địa chỉ Số nhà 102 dãy A3 khu thập thể Công ty Máy kéo, phường Yết Kiêu, quận Hà Bình, thành phố HT. II. QUAN ĐIỂM BẢO VỆ CỦA EQUITY LAW Chúng tôi cho rằng, Hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo là Giấy chứng nhận QSDĐ của bên thứ ba số 0016/2014/HĐTC/ ký ngày 26/02/2014 giữa bên nhận thế chấp DongduongBank PGD Lê Văn Lương và ông Lê Văn Kháng “Hợp đồng thế chấp” là hợp đồng vô hiệu. Bởi lí do sau 1. Hợp đồng thế chấp được ký kết dựa trên thông tin gian dối, sai sự thật do sự chỉ dẫn, xúi giục của anh Nguyễn Anh Đức – cán bộ Dongduong Bank – Con ông Lê Văn Kháng là chị Lê Thị Thu Ngân Sinh năm 1982 có chồng là anh Trần Duy Hiển đã mất, chị có hai người con cháu Trần Đức Thiện, sinh năm 2002 và cháu Nguyễn Khánh Linh, sinh năm 2011. Sau khi chồng chị Ngân qua đời, chị Ngân đã đưa con về ở với ông Kháng. Năm 2012 vợ ông Kháng mất do bệnh hiểm nghèo, ông Kháng cùng chị Ngân cùng nuôi hai cháu nhỏ ăn học, do đó cuộc sống dần rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Đến năm 2013, đầu năm 2014, do chị Ngân có nguyện vọng muốn vay một số tiền VND để làm vốn kinh doanh kiếm tiền nuôi hai con nhỏ học hành và bố già yếu. Khi đó, chị Ngân được anh Đức hứa hẹn giúp đỡ và đưa đi gặp ông Trần Mạnh Thanh – là Giám đốc Công ty TNHH Ansaka. Anh Đức đã đưa ra thông tin cho chị Ngân là muốn vay được tiền thì phải dùng Giấy chứng nhận nhà đất của ông Kháng để thế chấp cho khoản vay .000 VND mà không phải khoản vay VND cho Công ty TNHH Ansaka như thực tế hồ sơ ông Đức tạo lập, lừa ông Kháng ký kết. Tại đây, sau khi các bên thống nhất, chị Ngân đã ký vào Hợp đồng vay vốn đề ngày 01/03/2014 và Giấy vay tiền trong đó thể hiện nội dung “Công ty TNHH Ansaka cho chị vay số tiền là 150 triệu đồng và chị đồng ý thế chấp tài sản là bất động sản tại địa chỉ số nhà 102 Dãy A3 Khu Tập thể Công ty Máy kéo, phường Yết Kiêu, quận Hà Đồng, HT mang tên ông Lê Văn Kháng đề vay nhờ Công ty TNHH Ansaka vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đông Dương với số tiền 150 triệu đồng đợt 1 100 triệu; đợt 2 50 triệu”. Như vậy, bản thân chị Ngân đã bị ông Nguyễn Anh Đức lừa về số tiền cho vay khi ký Hợp đồng thế chấp. Chị Ngân tin tưởng vào Nguyễn Anh Đức về việc thế chấp nhà đất chỉ đảm bảo cho khoản vay VND; do vậy, chị Ngân cũng chỉ về nhà hướng dẫn cho ông Kháng ký hồ sơ để đảm bảo cho khoản vay VND không liên quan đến khoản vay VND của Công ty TNHH Ansaka. Sau đó anh Đức khẳng định với chị Ngân Công ty TNHH Ansaka vay tiền của Ngân hàng DongduongBank đã cầm cố toàn bộ lô hàng hình thành từ vốn vay theo Hợp đồng kinh tế được ký giữa Công ty TNHH Ansaka và Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Sản xuất Ngọc Phương, nên việc thế chấp tài sản của ông Kháng cho Ngân hàng chỉ là thủ tục và làm đẹp hồ sơ chứ không ảnh hưởng gì đến tài sản của ông Kháng. Nội dung này đã được chị Ngân xác nhận tại phiên tòa hôm nay; cũng như trong toàn bộ tiến trình tố tụng và những bản khai của ông Trần Mạnh Thanh – Giám đốc Công ty TNHH Ansaka. Cụ thể, tại Biên bản lấy lời khai ngày 30/9/2015, ông Thanh khai “Thực tế việc ông Kháng đứng ra thế chấp ngôi nhà này tôi không được biết, cán bộ tín dụng chỉ nói với tôi về việc đưa tài sản thế chấp của ông Kháng này vào để làm đẹp hồ sơ thôi”. Lời khai của chị Ngân và ông Thanh hoàn toàn phù hợp với trùng hợp với diễn biến thực tế và các chứng cứ khác trong vụ án. Xem xét Hợp đồng thế chấp, chỉ thể hiện có chữ ký của ông Kháng và Dongduong Bank; không có chữ ký hay cam đoan, bảo đảm nào của Công ty TNHH Ansaka với vai trò là bên được bảo đảm theo Hợp đồng. – Do tin vào những thông tin mà anh Đức đưa ra, nên chị Ngân đã nói với bố chị là dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà để thực hiện thế chấp theo yêu cầu của anh Đức chỉ thế chấp đảm bảo cho khoản vay VND. Xuất phát từ lòng thương con, thương cháu nên ông Kháng đã thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BH 865245, sổ vào sổ cấp GCN CH – 02045 do UBND quận Hà Bình, thành phố HT cấp ngày 29/06/2012 cho DongduongBank để cho chị Ngân được vay tiền lấy vốn làm ăn. Và do đã già yếu nên trình tự thủ tục vay như thế nào ông Kháng còn không hiểu, mọi thủ tục, giấy tờ đều do anh Đức làm và đưa cho ông Kháng ký. Khi ký hồ sơ này, ông Kháng chỉ hiểu là hoàn thiện thủ tục để cho con gái vay VND. Nếu biết việc thế chấp để cho Công ty TNHH Ansaka vay VND thì chắc chắn ông Kháng không bao giờ đánh đổi bằng tài sản mình tích góp cả đời có được. Mãi sau này chị Ngân và ông Kháng mới biết, việc ông Kháng ký Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 0016/2014/HĐTC/ ngày 26 tháng 02 năm 2014 giữa bên nhận thế chấp Dongduong Bank PGD Lê Văn Lương và bên thế chấp ông Lê Văn Kháng là để đảm bảo cho khoản vay 000 VND theo Hợp đồng tín dụng được ký giữa Dongduong Bank và Công ty TNHH Ansaka chứ không phải là để đảm bảo khoản vay 000 VND như thông tin anh Đức đã nói. – Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối như sau “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Như vậy có thể thấy, trên thực tế, anh Đức đã cố tình đưa ra những thông tin không đúng sự thật để khiến ông Kháng và chị Ngân tin rằng việc ký Hợp đồng thế chấp chỉ để đảm bảo cho khoản vay VND cho chị Ngân. Chị Ngân và ông Kháng tại thời điểm ký kết đều đã bị anh Đức lừa dối, hành vi của anh Đức đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của ông Kháng và gia đình của ông. 2. Ông Kháng và Công ty Ansaka không có bất kỳ một mối quan hệ gì Ông Lê Văn Kháng tại thời điểm ký Hợp đồng thế chấp đã gần 80 tuổi. Ông Kháng bệnh tật triền miên, hiện nay vẫn đang phải điều trị nội trú tại Bệnh viện. Trước vụ việc này, ông Kháng không có bất kỳ mối liên hệ, quen biết, hợp tác, làm ăn nào với Công ty TNHH Ansaka. Bản thân người đại diện theo pháp luật của Công ty Ansaka cũng không biết ông Kháng là ai. Việc ông Kháng thế chấp nhà đất là nơi ăn, chốn ở duy nhất của mình để đảm bảo nghĩa vụ cho một người xa lạ là hoàn toàn phi lý. Nội dung này được thể hiện rõ trong toàn bộ lời khai và tiến trình tố tụng đến nay. Tại Bản tự khai đề ngày 25/12/2016, ông Trần Mạnh Thanh đã khai “…Công ty Ansaka không có quen biết quan hệ gì với Lê Văn Kháng. Và việc ông Lê Văn Kháng thế chấp tài sản cho ngân hàng để đảm bảo khoản vay của Công ty Ansaka theo hợp đồng tín dụng 26/2/2014 là không đúng sự thật và công ty không được biết vì không biết nên hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ 3 không có chữ ký và con dấu…” Tại Biên bản lấy lời khai đề ngày 15/11/2019, ông Thanh có khai “….Khi ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng để vay số tiền đồng, để đảm bảo khoản vay giữa công ty và ngân hàng đã ký hợp đồng cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay ngày 28/02/2014 số PGD LEVANLUONG, theo đó tài sản cầm cố là 350 bình nước nóng ROSSI loại 15l, 20l, 30l theo hợp đồng kinh tế số 05…..Tuy nhiên, trong hợp đồng tín dụng công ty ký với ngân hàng thể hiện thêm tài sản bảo đảm là quyền sử dụng nhà đất của ông Lê Văn Kháng để đảm bảo khoản vay cho công ty Ansaka. Trước khi ký hợp đồng, tôi có hỏi về vấn đề này thì ngân hàng nói bổ sung thêm tài sản bảo đảm này để làm đẹp hồ sơ chứ thực tế tôi không có quen biết hay có quan hệ gì khác với ông Lê Văn Kháng…Nay ngân hàng yêu cầu được phát mại nhà đất trên tôi không đồng ý đề nghị Tòa án không chấp thuận yêu cầu của ngân hàng…” Như vậy, có thể thấy, giữa ông Kháng và Công ty TNHH Ansaka không hề có bất kỳ một mối quan hệ, quen biết nào, ông Kháng không thể dùng Tài sản là nơi ở trực tiếp duy nhất, cũng là nơi hương hỏa, thờ phụng ông bà tổ tiên và vợ của mình để đi thế chấp nhằm bảo đảm nghĩa vụ cho Công ty Ansaka. Chính anh Nguyễn Anh Đức là người đã cố ý thực hiện những hành vi gian dối, hướng dẫn ông Kháng và gia đình vay vốn không phù hợp và không đúng với quy định pháp luật, để nhằm làm cho gia đình ông Kháng, và ông Kháng ký vào Hợp đồng thế chấp nêu trên, dẫn đến gia đình ông Kháng phải chịu trách nhiệm nặng nề, vượt quá khả năng của mình đối với khoản nợ của Công ty TNHH Ansaka. 3. Tại thời điểm giao kết Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp, tất cả các bên liên quan đều thống nhất và hiểu rằng Thực tế tài sản đảm bảo cho khoản vay VND của Công ty TNHH Ansaka chỉ bao gồm lô hàng 350 bình nước nóng Rossi theo Hợp đồng cầm cố tài sản, không bao gồm nhà đất của ông Lê Văn Kháng Tại Biên bản lấy lời khai của đương sự đề ngày 30/6/2020, anh Thanh đã khai “..Ngân hàng cho Công ty TNHH Ansaka vay số tiền đồng là dựa trên hợp đồng mua bán giữa Công ty Ansaka và Công ty Ngọc Phương trị giá bằng lô hàng là 350 bình nước nóng ….phía Ngân hàng cho Công ty Ansaka vay bằng giá trị đảm bảo 100% tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay được hình thành sau vốn vay…”. Tại Biên bản lấy lời khai đề ngày 15/11/2019 nêu trên cũng thể hiện rõ việc bổ sung tài sản thế chấp là nhà đất của ông Kháng chỉ để làm đẹp hồ sơ Ngân hàng. Đây là chiêu trò của cán bộ Ngân hàng nhằm lừa đảo người dân kém hiểu biết như ông Kháng. Trên thực tế, giá trị lô hàng 350 bình nước nóng đã được Dongduong Bank định giá với giá trị là VND Sáu trăm chín mươi triệu đồng. Khoản vay VND của Công ty TNHH Ansaka chỉ chiếm 72% giá trị tài sản đảm bảo. Vì vậy, trên thực tế, việc bổ sung tài sản thế chấp là nhà đất của ông Kháng trị giá VND là không cần thiết trên thực tế trừ trường hợp có sự móc nối, câu kết, lừa đảo của Dongduong Bank. Khi ký hồ sơ, ông Kháng và gia đình luôn tin tưởng vào những lời dụ dỗ của cán bộ ngân hàng Dongduong Bank, tin rằng tài sản của mình chỉ đảm bảo cho khoản vay VND của con gái; và không liên quan đến khoản vay VND của Công ty TNHH Ansaka và thực tế sẽ không bao giờ bị kê biên, phát mại để thanh toán thay nghĩa vụ của Công ty TNHH Ansaka. Do vậy, ông Kháng đã bị lừa dối khi tham gia giao dịch, ký Hợp đồng thế chấp; Hợp đồng thế chấp vô hiệu và không có giá trị pháp lý từ thời điểm giao kết. III. KẾT LUẬN Như vậy, việc ông Kháng ký vào Hợp đồng thế chấp trên là bị lừa dối. Hành vi của anh Nguyễn Anh Đức đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Lê Văn Kháng. Do đó Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 0016/2014/HĐTC/ ký ngày 26/02/2014 giữa bên nhận thế chấp DongduongBank PGD Lê Văn Lương và ông Lê Văn Kháng bị vô hiệu theo quy định của pháp luật. Ngân hàng TM TNHH MTV Đông Dương có nghĩa vụ bàn giao lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn Kháng. Trên đây là tư vấn của EQUITY LAW FIRM về “VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG“ LIÊN HỆ LUẬT SƯ TƯ VẤN TRỰC TIẾP 078 569 0000 – 0969 099 300 Phụ trách nội dung ThS. LS. Phan Công Tiến – Luật sư điều hành Equity Law Firm Địa chỉ Tầng 5, Tòa nhà Bình Vượng Tower, số 200 đường Quang Trung, phường Quang Trung, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Email tienpc – luatsucongtien Fanpage Zalo liên hệ Luật sư Quét mã QR Zalo Luật sư Bạn có thể tham khảo các bài viết liên quan của Equity Law Firm XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP THẾ CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI CÓ NHÀ RIÊNG CỦA THÀNH VIÊN HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐẤT HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THỦ TỤC LẬP DI CHÚC – ĐIỀU KIỆN ĐỂ DI CHÚC HỢP PHÁP Bình luận
Bình luận 20 Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại, Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và Bản án tranh chấp về chấp hợp đồng dịch vụ. Và còn nhiều loại tài liệu hỗ trợ học tập cho các bạn sinh viên ngành Luật Các bạn sinh viên cần hỗ trợ viết báo cáo thực tập và tiểu luận có thể tham khảo Luận văn Luật qua dịch vụ hỗ trợ viết thuê báo cáo thực tập nhé. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 1 – Bản án 171/2006/KT-PT ngày 06/9/2006 về việc tranh chấp hợp đồng vận chuyển container của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà NộiBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 2 Bản án 459/2006/KDTM-ST ngày 15/09/2006 về việc Tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán cước giữ chỗ vận tải hàng không của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 3 Bản án số 50/2007/KDTM –PT ngày 31/5/2007 về việc Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân tối Cao tại thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 4 Quyết định giám đốc thẩm 05/2008/KDTM-GĐT ngày 03/6/2008 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 5. Bản án số 108/2017/KDTM-ST ngày 11/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ logistics của Tòa án nhân dân quận Tân Bình – thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 6. Bản án số 34/2017/KDTM-PT ngày 31/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số số 7. Bản án số 18/2018/KDTM-ST ngày 5/1/2018 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận – thành phố Hồ Chí MinhBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 7. Bản án số 03/2018/KDTM-PT về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 9. Bản án số 02/2018/KDTM-ST ngày 5/11/2018 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý – tỉnh Hà NamBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 10. Bản án số 41/2018/KDTM-PT ngày 22/11/2018 về Tranh chấp bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 11. Bản án số 02/2019/KDTM-ST ngày 31/5/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách tỉnh Hải DươngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 12. Bản án số 01/2019/KDTM-ST ngày 18/6/2019 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 13. Bản án số 15/2019/KDTM-ST ngày 10/7/2019 về tranh chấp hợp đồng Logistics của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn – tỉnh Hòa án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 14. Bản án số 03/2019/KDTM-ST ngày 19/7/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá – tỉnh Kiên GiangBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 15. Bản án số 05/2019/KDTM-ST ngày 12/8/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên – tỉnh Bắc GiangBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 16. Bản án số 10/2019/DS-ST ngày về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê – thành phố Đà NẵngBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 17. Bản án số 06/2019/KDTM-ST ngày 8/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Lê Chân – Thành phố Hải PhòngBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 18. Bản án số 28/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ Logistics của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa – tỉnh Đồng NaiBản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 19. Bản án số 10/2019/KDTM-PT ngày 20/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Hải DươngBản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 20. Bản án số 01/2020/KDTM-ST ngày 10/ về Tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại hàng hóa theo hợp đồng vận chuyển bằng đường biển của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền – thành phố Hải Phòng Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 1 – Bản án 171/2006/KT-PT ngày 06/9/2006 về việc tranh chấp hợp đồng vận chuyển container của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội Nguyên đơn Công ty TCC Bị đơn Công ty Phili Tóm tắt vụ án Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng vận chuyển từ đến Hamburg, sau đó Nguyên đơn thỏa thuận với ông Johnny Chew về việc vận chuyển từ Hamburg đến Praha. Vào thời điểm Nguyên đơn thỏa thuận với ông Johnny Chew về việc vận chuyển từ Hamburg đến Praha thì ông Johnny Chew đã bị buộc thôi việc tại Công ty Phili. Hai hóa đơn Nguyên đơn cung cấp thể hiện Bị đơn phải thanh toán số tiền vận chuyển là USD. Trong đó 1000 USD đã được ông Johnny Chew trả với danh nghĩa cá nhân vào ngày 15/2/2004. Ngày 21/3/2005, Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán khoản nợ gốc là USD và lãi chậm trả 8%/năm tính từ ngày 01/3/2004. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán của người ký kết hợp đồng Nhận định của Tòa Bản án sơ thẩm Áp dụng Điều 233 và 234 Luật Thương mại 1997, bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn. Bản án phúc thẩm Xét thấy Hợp đồng vận chuyển giữa Công ty Phili và Công ty TCC là hợp đồng vận chuyển từ đến Hamburg. Sau đó từ Hamburg đến Praha thì không có hợp đồng giữa các Bên thể hiện cho việc này. Hợp đồng vận chuyển từ đến Hamburg là do ông Johnny Chew người đại diện theo pháp luật của Bị đơn ký. Ông Johnny Chew đã bị buộc thôi việc từ 01/9/2002, nếu ông có ký hợp đồng vận chuyển tiếp với Nguyên đơn thì cá nhân ông Johnny Chew phải chịu trách nhiệm. Việc vận chuyển từ TP. HCM đi Hamburg đã được Công ty Phili thanh toán thuế giá trị gia tăng với Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển. Về ông Johnny Chew, ông cũng đã có thừa nhận rằng việc vận chuyển hàng đi Praha là nợ của cá nhân ông. Tòa án cấp Phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án của Tòa cấp sơ thẩm. Nhận định cá nhân Việc Nguyên đơn kiện Bị đơn là do Nguyên đơn không biết được về việc ông Johnny Chew đã bị thôi việc. Vậy lúc thỏa thuận về việc vận chuyển từ Hamburg đến Praha qua email với ông Johnny Chew thì ông Johnny Chew đã sử dụng danh nghĩa cá nhân hay là danh nghĩa của Công ty Phili để thỏa thuận việc này. heo em ông Johnny Chew đã sử dụng danh nghĩa của Công ty Phili, vì vậy mới dẫn đến việc Công ty TTC khởi kiện Công ty Phili mà không phải là ông Johnny Chew. Viêc ông Johnny Chew làm như vậy liệu có bị phạt hành chính theo quy định của Luật thương mại 1997 hay không? Nếu như lập luận của em đúng thì ông Johnny Chew phải bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 258 Luật thương mại 1997. Ngoài ra khoản lợi nhuận ông Johnny Chew có được từ việc vận chuyển này phải thuộc về Công ty Phili do Công ty TTC cho rằng ông Johnny Chew đại diện cho Công ty Phili để thỏa thuận. XEM THÊM ==> Trọn bộ 362 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Luật Doanh Nghiệp XEM THÊM ==> Quy Định Của Pháp Luật Về Công Ty TNHH Hai Thành Viên Trở Lê XEM THÊM ==> Đề Tài tốt nghiệp Pháp Luật Về Đăng Ký Doanh Nghiệp Ở Việt Nam Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 2 Bản án 459/2006/KDTM-ST ngày 15/09/2006 về việc Tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán cước giữ chỗ vận tải hàng không của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên đơn Công ty kho vận Miền Nam Bị đơn Công ty C&I Tóm tắt vụ án Nguyên đơn có ký với Bị đơn hợp đồng mua chỗ vận chuyển lô hàng với số tiền cước là USD. Khi gởi lô hàng qua hãng hàng không thì Bị đơn đã gởi kèm bộ chứng từ thay vì phải gửi bằng đường bưu điện và đã không khai báo cho Nguyên đơn và hãng hàng không về việc này. Vì vậy, khách hàng không nhận được hàng và vì phải làm lại bộ chứng từ nên mất 16 ngày mới nhận được hàng. Bị đơn còn nợ Nguyên đơn số tiền là USD, do giao hàng chậm trễ nên Nguyên đơn chia sẻ tiền cước là còn USD nhưng Bị đơn không trả. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn trả USD, Bị đơn xác nhận số nợ và có yêu cầu phản tố đòi Nguyên đơn bồi thường số tiền thiệt hại là USD do hang hàng không làm mất bộ chứng từ hàng hóa. Vấn đề pháp lý Nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhận định của Tòa án Về yêu cầu của Nguyên đơn, vì Bị đơn đã xác nhận nợ nên Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số tiền USD Về yêu cầu phản tố của Bị đơn, Tòa án căn cứ vào khoản điều III của Hợp đồng đại lý mua bán cước giữ chỗ vận tải hàng không số 11C7/01-05/HĐGNVCNT-QT ngày 01/01/2005 quy định trách nhiệm và quyền của Bị đơn. Khi có tranh chấp trong việc thất lạc bộ chứng từ hàng hóa thì Bị đơn có trách nhiệm khiếu nại trực tiếp với hãng hàng không để đòi bồi thường do việc thất lạc bộ chứng từ hàng hóa nên yêu cầu của Bị đơn là không có cơ sở. * Nhận định cá nhân Tôi cho rằng cấp sơ thẩm đã giải quyết đúng quy định pháp luật nhằm đảm quyền và lợi ích của cá nhân. Nhưng trên thực tế thì việc các bên phải thực hiện nghĩa vụ là hoàn toàn đúng quy định bởi điều này phù hợp với các điều khoản ghi rõ trong hợp đồng. Do đó, phán quyết của Tòa án là hoàn toàn chính xác. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 3 Bản án số 50/2007/KDTM –PT ngày 31/5/2007 về việc Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân tối Cao tại thành phố Hồ Chí Minh – Nguyên đơn Bình Minh Tài – Bị đơn Nguyễn Thành Hưng – Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Dutch Lady Việt Nam, ông Nguyễn Quang Tuấn Tóm tắt vụ án o Công ty Bình Minh Tài ký hợp đồng vận chuyển sữa Cô Gái Hà Lan từ Bình Dương ra Hà Nội. Trên đường vận chuyển, lái xe số 12H – 6388 gây tai nạn, tài xế bị chết, hàng hóa hư hỏng. Công ty Bình Minh Tải đã phải bồi thường cho Công ty Dutch Lady Vietnam số tiền Nay Công ty TNHH Bình Minh Tải yêu cầu ông Nguyễn Thành Hưng với trách nhiệm là chủ xe bồi hoàn số tiền mà Công ty TNHH Bình Minh Tải đã bồi thường cho Công ty Dutch Lady Vietnam là o Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là Công ty Bình Minh Tải đối với bị đơn là ông Nguyễn Thành Hưng.. o Quyết định phúc thẩm Hủy quyết định phúc thẩm. Quyết định giám đốc thẩm Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 4 Quyết định giám đốc thẩm 05/2008/KDTM-GĐT ngày 03/6/2008 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa. Nguyên đơn Công ty TFS Bị đơn Công ty KRV Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty GFT Tóm tắt vụ án Công ty KRV và Công ty TFS có ký với nhau Hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa, theo đó Công ty TFS sẽ giao hàng may mặc từ sang Miami, Florida. Cước phí vận chuyển lô hàng là USD. Sau khi Công ty TFS hoàn tất nghĩa vụ giao hàng, phía Công ty KRV thanh toán số tiền USD thông qua GFT. TFS yêu cầu Tòa án xét xử buộc Công ty KRV phải thanh toán số tiền còn nợ là USD và tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. KRV lập luận rằng trong điều khoản thanh toán ghi trên yêu cầu vận chuyển của KRV gửi TFS ngày 26/02/2004 và trong vận đơn hàng không đã ghi rõ “Cước phí trả trước bởi GFT”. Do đó, GFT mới là người có trách nhiệm thanh toán cước phí vận chuyển cho TFS và phỉa thanh toán trước khi vận chuyển. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu của TFS, buộc KRV phải trả số tiền USD. Quyết định phúc thẩm Đình chỉ xét xử vụ án do Người kháng cáo là KRV đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Quyết định giám đốc thẩm Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ giữa KRV và TFS là quan hệ hợp đồng vận chuyển hàng không là không đúng, quan hệ giữa 2 bên là quan hệ hợp đồng dịch vụ giao nhận hàng hóa. Vận đơn mà TFS đã đưa cho KRV chỉ là vận đơn thứ cấp nên phải áp dụng Luật thương mại 1997 từ Điều 163 đến Điều 171 quy định về “Dịch vụ giao nhận hàng hóa”. Áp dụng khoản 4 Điều 167, khoản 7 Điều 168 Luật thương mại 1997, khi TFS không nhận được khoản tiền thanh toán từ GFT, TFS phải thông báo cho KRV để xin chỉ dẫn thêm nhưng TFS không làm. Việc này dẫn đến hậu quả là thiệt hại xảy ra cho TFS vì đã không thực hiện đúng chỉ dẫn của khách hàng nên KRV không có lỗi để bồi thường thiệt hại. Ngoài ra còn có chứng cứ chứng minh việc TFS đã xác định rõ người có trách nhiệm trả tiền cho mình là GFT chứ không phải là KRV, vì GFT không thanh toán nên mới khởi kiện đòi KRV. Vì vậy, Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 5. Bản án số 108/2017/KDTM-ST ngày 11/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ logistics của Tòa án nhân dân quận Tân Bình – thành phố Hồ Chí Minh – Nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phân Phối và Thương Mại T – Bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Thực phẩm C – Bên liên quan Công ty S Tóm tắt vụ án Ông B – giám đốc Công ty T liên lạc với ông L giám đốc công ty C nhờ Công ty C đứng ra nhập khẩu lô hàng đậu nành từ Công ty S ở Thái Lan về Việt Nam. Ông B đã thỏa thuận hàng hóa, số lượng, giá cả với Công ty S bên Thái Lan, sau đó Công ty C đã ký kết hợp đồng mua bán với Công ty S để nhập khẩu lô hàng đậu nành trị giá USD về Việt Nam. Ông B đã đến Công ty C để thanh toán tiền 02 lần đủ 100% giá trị HĐ – đồng nhưng Công ty T vẫn chưa được nhận hàng từ Công ty S Thái Lan. Công ty T khởi kiện yêu cầu Công ty C bồi thường số tiền đồng. Tại buổi hòa giải, công ty T có thay đổi số tiền yêu cầu bồi thường là đồng – Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phân Phối và Thương Mại T đòi Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Thực phẩm C bồi thường số tiền đồng. Bình Luận 20 Bản án về chấp hợp đồng thương mại, hợp đồng DỊCH VỤ Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 6. Bản án số 34/2017/KDTM-PT ngày 31/8/2017 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh Nguyên đơn Công ty H Bị đơn Công ty Tr Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty H1 Tóm tắt vụ án Công ty H đã ký hợp đồng với Công ty H1 để nhập khẩu xe ô tô tại cảng Hải Phòng. Công ty H đã thanh toán tiền xe và giá cước vận tải. Bên bán đã đóng hàng trong 2 contener từ Hoa Kỳ về đến cảng trả hàng tại Hải Phòng. Hàng đến cảng nhưng Công ty mạng lưới vận tải Tr không giao hàng. Công ty Tr gửi giấy báo tàu đến có nội dung yêu cầu thanh toán cước phí vận tải biển và phí lưu contener là sai vì giá mua hàng đã bao gồm phí vận chuyển. Do đó công ty H đã khởi kiện đòi phát lệnh giao hàng công ty H khởi kiện yêu cầu Công ty Tr giải quyết trả hàng theo vận đơn và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do không thực hiện nghĩa vụ giao hàng Vấn đề pháp lý Trách nhiệm vận chuyển và giao hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu của H, buộc công ty Tr phải chịu cước phí, phí lưu kho. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường Quyết định phúc thẩm Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn. Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số số 7. Bản án số 18/2018/KDTM-ST ngày 5/1/2018 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận – thành phố Hồ Chí Minh – Nguyên đơn Công ty Cổ phần J – Bị đơn Công ty Cổ phần Y Tóm tắt vụ án Công ty Cổ phần J và Công ty Cổ phần Y có ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa với nội dung Công ty Y ủy quyền cho Công ty J thực hiện vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không. Công ty J đã thực hiện đầy đủ hợp đồng. Tuy nhiên, công ty Y không thanh toán cho côngY theo đúng cam kết. Do vậy, Công ty J yêu cầu Công ty Y có trách nhiệm thanh toán số tiền còn – Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của công Y. Buộc công ty Công ty Cổ phần J số tiền nợ cước dịch vụ vận chuyển là đồng. XEM THÊM ==> Tổng hợp 55 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Hợp Đồng Lao Động XEM THÊM ==> Danh sách 70 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Hợp Đồng Dân Sự, Mới Nhất Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 7. Bản án số 03/2018/KDTM-PT về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty bảo hiểm BIC Bị đơn Công ty Nhã Phương Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty T&C Tóm tắt vụ án Công ty T&C ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa với Công ty Nhã Phương, theo đó Công ty T&C sẽ vận chuyển 01 container lạnh của Công ty Nhã Phương chở hàng đi từ Hải Phòng đến cửa khẩu Bình Nghi, Lạng Sơn. Trước đó, Công ty Nhã Phương đã ký hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển cho vỏ container lạnh nêu trên với Công ty bảo hiểm BIC. Quá trình điều khiển thì tài xế của Công ty T&C điều khiển xe gây tai nạn. Công ty BIC đã chi trả số tiền bồi thường cho Công ty Nhã Phương. Do vậy Công ty BIC khởi kiện yêu cầu Công ty T&C hoàn trả lại số tiền sau khi trừ tiền bán thanh lý vỏ container còn lại đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn Công ty Cổ phần Tphải bồi hoàn cho nguyên đơn Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Nkhoản tiền đồng Quyết định phúc thẩm Chấp nhận một phần kháng cáo của công ty T&C. Sửa 1 phần bản án sơ thẩm Công ty Cổ phần T&C phải trả cho Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 9. Bản án số 02/2018/KDTM-ST ngày 5/11/2018 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý – tỉnh Hà Nam – Nguyên đơn Công ty K – Bị đơn Công ty U Tóm tắt vụ án Công ty K thực hiện dịch vụ vận chuyển và nâng hạ hàng hóa theo yêu cầu của Công ty U, xác nhận bằng lời nói, và thực hiện theo đúng hợp đồng. Theo dịch vụ logisticsc c tổng giá trị là Sau khi K uất các hóa đơn theo từng lần vận chuyển thì U vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho K. Nay Công ty K khởi kiện yêu cầu Công ty U thanh toán số tiền thu lao chậm trả và tiền lãi chậm trả. – Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thanh toán trong hợp đồng – Nhận định của Tòa án o Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của công K. Buộc công ty Công ty Công ty U phải trả cho Công K tổng số tiền là làm tròn thành Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 10. Bản án số 41/2018/KDTM-PT ngày 22/11/2018 về Tranh chấp bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty A Bị đơn Công ty B Người liên quan Công ty M Tóm tắt vụ án Công ty A và Công ty B ký kết Hợp đồng vận chuyển. Theo yêu cầu của Công ty A, Công ty B đã bố trí xe container do lái xe C của Công ty B điều khiển chở hàng là đá xẻ ốp lát dạng tấm mài bong 01 mặt dùng trong xây dựng đựng trong container từ Công ty T ở tỉnh Yên Bái đi Hải Phòng. Khi xe ô tô trên đường vận chuyển thì bị xảy ra tai nạn. Công ty A đã bồi thường toàn bộ chi phí thiệt hại do Công ty B gây ra cho Công ty M số tiền là đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận chuyển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Buộc bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn số tiền là Quyết định phúc thẩm Giữ nguyên bản án sơ thẩm Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 11. Bản án số 02/2019/KDTM-ST ngày 31/5/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương Nguyên đơn Công ty V Bị đơn Công ty A Tóm tắt vụ án Công ty V thuê Công ty A vận chuyển hàng hóa là cọc bê tông, cước vận chuyển là đã bao gồm VAT, chi phí cầu cảng, phí bốc xếp hàng tổng cộng bằng Công ty A đã hoàn thành nghĩa vụ vận chuyển, xuất hóa đơn, đề nghị thanh toán cùng với biên bản quyết toán hàng hóa nhưng Công ty A cũng không thực hiện thanh toán như thỏa thuận. Do vậy công ty A yêu cầu công ty V trả tiền còn nợ là và tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất là 9%/năm. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng vận chuyển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A Buộc Công ty V phải thanh toán trả Công ty A khoản tiền còn nợ từ hợp đồng vận chuyển nợ gốc là và tiền lãi phát sinh là Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 12. Bản án số 01/2019/KDTM-ST ngày 18/6/2019 về Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty Cảng Hoàng D Bị đơn Công ty Cảng Hoàng D Tóm tắt vụ án Công ty V thuê Công ty A vận chuyển hàng hóa là cọc bê tông, cước vận chuyển là đã bao gồm VAT, chi phí cầu cảng, phí bốc xếp hàng tổng cộng bằng Công ty A đã hoàn thành nghĩa vụ vận chuyển, xuất hóa đơn, đề nghị thanh toán cùng với biên bản quyết toán hàng hóa nhưng Công ty A cũng không thực hiện thanh toán như thỏa thuận. Do vậy công ty A yêu cầu công ty V trả tiền còn nợ là và tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất là 9%/năm. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng vận chuyển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A Buộc Công ty V phải thanh toán trả Công ty A khoản tiền còn nợ từ hợp đồng vận chuyển nợ gốc là và tiền lãi phát sinh là Bản án về tranh chấp hợp đồng thương mại số 13. Bản án số 15/2019/KDTM-ST ngày 10/7/2019 về tranh chấp hợp đồng Logistics của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn – tỉnh Hòa Bình. Nguyên đơn Công ty TNHH một thành viên dịch vụ giao nhận K Bị đơn Công ty Cổ phần may xuất khẩu A Tóm tắt vụ án Năm 2017, Công ty giao nhận K giao kết hợp đồng dịch vụ Logistics với Công ty may xuất khẩu A và không lập thành văn bản. Phía Công ty K đã thực hiện đầy đủ dịch vụ và giao trả hóa đơn thuế giá trị gia tăng cho Công ty A. Tuy nhiên, Công ty A chậm thanh toán giá dịch vụ cho Công ty K. Số tiền chậm thanh toán là đồng. Do vậy, Công ty K khởi kiện với yêu cầu Công ty A thanh toán trả khoản tiền dịch vụ còn lại là đồng và khoản tiền lãi do chậm trả là đồng Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng Logistics Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty Cổ phần may xuất khẩu A có nghĩa vụ thanh toán trả phí dịch vụ Logistics cho Công ty TNHH một thành viên dịch vụ giao nhận K số tiền là đồng và khoản tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là đồng. Tổng cộng là Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 14. Bản án số 03/2019/KDTM-ST ngày 19/7/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá – tỉnh Kiên Giang Nguyên đơn Công ty TNHH Tiếp vận vận tải quốc tế V Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N Tóm tắt vụ án Công ty TNHH Tiếp vận vận tải quốc tế V ký kết Hợp đồng dịch vụ giao nhận với Công N. Theo đó Công ty V vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, đường hàng không, vận chuyển nội địa, khai báo Hải quan, làm dịch vụ C/O Form D. Đồng thời, Công ty N có trách nhiệm phải thanh toán đủ 100% trị giá hóa đơn của từng lô hàng cho Công ty V trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tàu chạy. Công ty N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mặc dù đã được nhắc nhở nhiều lần. Do vậy Công ty TNHH Tiếp vận vận tải quốc tế V yêu cầu Tòa án buộc Công ty N phải trả số tiền đồng Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng dịch vụ Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Buộc Công ty N phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công tiếp vận vận tải quốc tế V số tiền đồng. Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 15. Bản án số 05/2019/KDTM-ST ngày 12/8/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang Nguyên đơn Công ty S Bị đơn Công ty Ch Người liên quan Công ty S Tóm tắt vụ án Công ty S ký Hợp đồng vận chuyển với Công ty Ch với thời hạn 12 tháng trong đó bên thuê vận chuyển là Công ty S, còn bên cung cấp dịch vụ vận chuyển là Công ty Ch. Nội dung bắt buộc công ty Ch phải thực hiện và tuân thủ đúng các yêu cầu và đảm bảo thực hiện các nguyên tắc trong quá trình bốc dỡ, di chuyển hàng hóa. Công ty Ch thì cho rằng Công ty Ch chỉ đứng ra ký kết hợp đồng với S còn việc vận chuyển là thuê bên Công Q vận chuyển. Toàn bộ lái xe và xe vận chuyển là của Công ty Q. Nếu bồi thường thì công ty S chỉ bồi thường theo hạn mức tham gia bảo hiểm Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng vận chuyển hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty S và Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty Ch. Buộc Công ty Ch phải bồi thường cho Công ty S số tiền đồng. Được đối trừ vào số tiền theo yêu cầu của Công ty cổ phần Ch với số tiền là đồng. Công ty Ch còn phải bồi thường cho Công ty S số tiền là đồng. Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 16. Bản án số 10/2019/DS-ST ngày về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê – thành phố Đà Nẵng Nguyên đơn Công ty cổ phần quốc tế Lô-gi-stíc H Bị đơn Công ty cổ phần thủy sản V Người liên quan Công ty Q Tóm tắt vụ án Công ty cổ phần quốc tế Lô-gi-stíc H với Công ty cổ phần thủy sản V thì Công ty cổ phần quốc tế Lô-gi-stíc H có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ tiếp nhận và vận chuyển những lô hàng xuất khẩu của Công ty cổ phần thủy sản V từ Việt Nam đến các nước khác. Công ty H đã thực hiện đúng, đầy đủ các nội dung trong hợp đồng. Tuy nhiên, công ty V không thực hiện. Công ty H khởi kiện yêu cầu thực hiện thanh toán hợp đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng Logistic Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty H . Buộc Công ty Cổ phần Thủy sản V phải trả cho Công ty Cổ phần quốc tế Lôgistic H số tiền Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 17. Bản án số 06/2019/KDTM-ST ngày 8/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển của Tòa án nhân dân quận Lê Chân – Thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Công ty L Bị đơn Công ty Đ Tóm tắt vụ án Công ty cổ phần L có ký Hợp đồng vận chuyển với Công Đ. Công ty L nhận cấp phương tiện Sà lan để vận chuyển hàng sắt thép. Quá trình thực hiện công ty L đã thực hiện đủ nhưng công ty Đ không tiến hành thanh toán số nợ. Công ty L khởi kiện yêu cầu công ty Đ phải thanh toán cho Công ty cổ phần L số tiền còn nợ đọng là đồng, không yêu cầu trả lãi. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng vận chuyển hàng hóa Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty L. Buộc Công ty Đ phải thanh toán cho Công ty L số tiền còn nợ là Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 18. Bản án số 28/2019/KDTM-ST ngày 11/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng dịch vụ Logistics của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa – tỉnh Đồng Nai Nguyên đơn Công ty DT L VN Bị đơn Công ty OT Tóm tắt vụ án Giữa Công ty DT L VN và Công ty OT ký kết Hợp đồng dịch vụ giao nhận theo đó Công ty OT đồng ý giao cho Công ty DT L VN làm đại diện vận chuyển hàng hóa đến các địa điểm mà Công ty OT yêu cầu. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, trong năm 2018 có 03 lô hàng đã được Công ty DT L VN vận chuyển hoàn tất theo yêu cầu của OT, nhưng đến nay Công ty OT vẫn chưa thanh toán các khoản phí liên quan cho Công DT L VN. Do vậy Công ty DT L VN khởi kiện yêu cầu thực hiện. Công ty OT cho rằng Giữa Công ty DT L VN và Công ty OT không có hợp đồng dịch vụ giao nhận ngày 25/12/2016; Việc Công ty DT L VN vận chuyển hàng hóa của Công ty OT là dựa trên sự câu kết giữa nhân viên giao nhận của Công ty OT và nhân viên xuất nhập khẩu của Công ty DT L VN. Công ty OT không đồng ý với nội dung đơn khởi kiện của Công ty DT L VN Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng dịch vụ Logistic Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH DT L. Buộc Công ty OT có nghĩa vụ phải thanh toán cho Công ty TNHH DT L số tiền Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 19. Bản án số 10/2019/KDTM-PT ngày 20/11/2019 về Tranh chấp hợp đồng vận chuyển tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương Nguyên đơn Công ty S- đại diện ông Ng Bị đơn Vũ Đình N Người liên quan Ông H, Ông N, Công Ty S, bà Vũ Thị S vợ ông Ng, Công ty M, Ông Q Tóm tắt vụ án Công ty S do ông Ng đại diện đã ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa là sập gỗ với ông Vũ Đình N- là cá nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa. Trong hợp đồng không ghi rõ đầy đủ mà thể hiện qua giao dịch miệng và điện thoại. Công ty S thuê ông Vũ Đình N vận chuyển 4 tấm gỗ trị giá là từ Hải Dương đến Hồ Chí Minh giao cho ông H với cước phí vận chuyển trọn gói là Ông N không giao cho ông H mà giao cho người khác. Khi giao hành ông Ng yêu cầu ông N không giao cho người khác mà giao cho ông H theo nội dung hợp đồng nhưng ông N cho rằng nếu mất hàng sẽ đền. Sau đó, ông Ng nhận người mua hàng chuyển đồng vào tài khoản công ty và đồng vào tài khoản bà S vợ ông Ng. Nhưng sau đó ông Ng kiểm tra lại thì chỉ có đồng không phải số tiền ban đầu. Công Ty M bảo không mua của công ty S mà mua của ông Q. Do đó, ông N phải có nghĩa vụ bồi thường. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm thực hiện hợp đồng hợp đồng dịch vụ Logistic Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty S. Hủy hợp đồng vận chuyển ngày 15/12/2017 giữa Công ty S với ông Vũ Đình N. Buộc ông N phải bồi thường thiệt hại cho Công ty S giá trị hàng hóa bị mất là Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Vũ Đình N về việc buộc Công ty S phải trả tiền phí vận chuyển. – Bản án phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm. Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 20. Bản án số 01/2020/KDTM-ST ngày 10/ về Tranh chấp kiện đòi bồi thường thiệt hại hàng hóa theo hợp đồng vận chuyển bằng đường biển của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền – thành phố Hải Phòng Nguyên đơn Tổng Công ty B M Bị đơn Công ty P V Bên liên quan Công ty HS, Công ty HA, Công ty cổ phần vận tải biển HL Tóm tắt vụ án Tổng Công ty B M nhận bảo hiểm cho lô hàng 131 cuộn/ tấn thép cuộn cán nguội được vận chuyển từ cảng SSIT Phú Mỹ đến cảng Nghi Sơn, Thanh Hóa của Công ty H S. Lô hàng trên được chở theo Hợp đồng đại lý vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển giữa Công ty Cổ phần Vận tải biển H A và Công ty Cổ phần Đại lý Vận tải biển H L. Trên đường vận chuyển thì xảy ta va chạm tàu và toàn bộ số hàng bị chìm. Theo báo cáo giám định nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn là do yếu tố con người. Căn cứ theo hợp đồng bảo hiểm, Tổng Công ty B M chấp nhận bồi thường cho Công ty H S số tiền theo 02 4 đơn bảo hiểm là đồng. Cùng ngày Công ty H S đã thế nhiệm để chuyển cho Tổng Công ty B M quyền liên quan đến lô hàng. Tổng Công ty B M có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết Buộc người vận chuyển là Công ty P V là người gây nên tổn thất phải bồi thường số tiền tương ứng tỷ lệ lỗi 42% là và tiền lãi trả chậm là đồng. Vấn đề pháp lý Trách nhiệm bồi thường thiệt hại hàng hóa theo hợp đồng vận chuyển bằng đường biển Nhận định của Tòa án Bản án sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công ty P V phải bồi hoàn khoản tiền mà Công ty B M đã bồi thường cho Công ty H S và khoản tiền lãi chậm thanh toán.
bình luận bản án tranh chấp hợp đồng tín dụng