Những Người Khốn Kh Ngày hôm âý, hai bốn tháng mười hai 1823, trời nắng chói chang nhưng buổi chiều khi ngọn gió bấc thổi về người ta có cảm giác như đang giữa mùa đông nghiệt ngã. Một người đàn ông đang sải bước trong đám cây cuối cùng của khu rừng. ông dừng 4 bộ phim về người khuyết tật gây xúc động của điện ảnh Việt. 1khophim. May 2, 2018 No Comments. Cùng điểm lại những tác phẩm hiếm hoi khiến người xem xúc động mạnh mẽ khi nói về những người đặc biệt: người khuyết tật nhưng sở hữu trái tim ấm áp và giàu yêu Cái tia nắng cuối cùng của tháng 10 ám ảnh một cách khó chịu, rùng rợn như đêm Halloween ma mị mà cũng nhẹ nhàng như tiết trời mùa thu thơ mộng. Tất cả mọi thứ dường như quyện lại, mờ mờ, ảo ảo, say say, ngất ngây nhưng cứ trói buộc để không thoát được. Ở đây đang có một người nhớ Trăng. 2. Nắng mưa là chuyện của trời; Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng. 3. Trái tim hát lại câu thề; Bài thơ tôi lại nhớ về người dưng. 4. Đôi khi lỡ hẹn một giờ; Lần sau muốn gặp phải chờ trăm năm. 5. Nụ cười em bao la vũ trụ Mọi người ngẩng lên trông có sáu bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người mà dẫn đi. Người làng đem rất nhiều tiền của để tạ ơn vị đạo nhân, nhưng đạo nhân phất áo đi vào non sâu, không lấy một tí gì cả. LỜI BÌNH: Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. 1) Mặt Trời / Mặt Trăng ở cung Nhà 1 -> sẽ gặp người yêu / phối ngẫu / vợ chồng ở cung Nhà 7 - Đây là 1 trong 2 trường hợp có phạm vi "đối tượng người yêu" rộng rãi nhất. 1YGAjtj. Giáo dục Thứ bảy, 1/10/2016 1106 GMT+7 1106 1/10/2016 Cao Bá Quát là người có tài hay chữ và được tôn là “Thánh Quát”. Tài giỏi nhưng vì quá kiêu căng, ngạo nghễ, cuộc đời ông gặp nhiều gian truân. Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Thiên, là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là văn tài xuất chúng của nước ta vào thế kỷ 19. Ngay từ thuở nhỏ, Cao Bá Quát đã nổi tiếng học giỏi nên được mọi người coi như thần đồng. Tuy vậy, ông không được may mắn trong thi cử. Năm Minh Mệnh thứ 12 1831, ông thi Hương trường Hà Nội, đậu Á nguyên Cử nhân, tức là đỗ thứ nhì trong kỳ thi đó. Nhưng khi bài thi bị duyệt lại vì có lỗi, ông bị đánh tụt xuống cuối bảng. Vào kinh để thi Hội nhiều lần, ông đều bị đánh trượt. Hay chữ từ thuở nhỏ Chuyện kể khi còn bé, Cao Bá Quát ra tắm ở Hồ Tây, đúng vào lúc vua Minh Mệnh tuần du ở đó. Đạo ngự đi qua, tàn lọng rợp trời, gươm đao sáng quắc, ai cũng phải tránh xa, riêng cậu Quát cứ tự do vùng vẫy. Lính đến bắt lôi lên bờ, cậu cứ trần truồng đến trước mặt vua, tự khai là học trò, vì trời nực ra tắm mát. Vua nhìn xuống hồ thấy cá lớn đang đuổi đàn cá con, liền đọc câu đối, bảo nếu đúng Quát là học trò thì phải đối được và sẽ tha không đánh đòn. Vế đối ra “Nước trong leo lẻo, cá đớp cá". Cậu Quát ứng khẩu đối ngay “Trời nắng chang chang, người trói người”. Một chuyện khác, ở làng của Cao Bá Quát có viên lý trưởng có tiếng là hay tham nhũng, ăn bớt của dân. Dân làng chê trách nhưng không ai dám chỉ trích công khai. Nhân có việc làng cho đắp đôi voi thờ dựng trước cửa đình, cậu Quát cùng chúng bạn ra chơi, lấy bút viết luôn vào lưng voi bài thơ Khen ai rõ khéo đắp đôi voi Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi Chỉ có cái kia sao chẳng đắp Hay là thầy Lý bớt đi rồi. Cao Bá Quát còn ít tuổi nên có tính kiêu căng, ai ông cũng chê học dốt. Ông nói "Cả thiên hạ có 4 bồ chữ, anh Bá Đạt anh sinh đôi của Cao Bá Quát và ông Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ, một mình tôi chiếm hai bồ, còn một bồ thì phân phối cho cả thiên hạ”. Ngông nghênh sửa cả thơ vua Khi Tự Đức lên nối ngôi, nhà vua cũng rất có tài làm thơ văn nên thường nghĩ ra những trò văn chương với các quan. Lúc đó, ông Quát làm ở bộ Lễ. Một lần vua Tự Đức làm đôi câu đối “Tử năng thừa phụ nghiệp/ Thần khả báo quân ân" con nối nghiệp cha, tôi đền ơn vua rồi đọc cho các quan nghe. Các quan đều tấm tắc khen hay, vội lấy giấy bút chép mang về nhà treo như một bảo vật. Thực ra, hai câu đó rất tầm thường, nói đến tam cương ngũ thường trong đạo Nho, nghĩa vua tôi, đạo cha con, chứ chẳng có gì là hay ghê gớm, nhưng các quan trong triều thấy vua khoe, dù hay dở cũng phải đồng thanh khen ngợi để “lấy điểm”. Nơi làm việc của Cao bá Quát tại công sảnh bộ Lễ cũng có treo đôi câu đối đó. Dù biết là của vua, nhưng không kìm được tính kiêu ngạo, ông cầm bút viết bên cạnh “Hảo hề! Hảo hề! phụ tử quân thần điên đảo” Có nghĩa là “Hay thiệt! Hay thiệt! Cha con vua tôi đảo ngược”. Lễ bộ sợ hãi, tâu trình. Vua cho đòi Bá Quát tới. Quát bị lính giải tới trước mặt vua, bình tĩnh nói “Tâu bệ hạ, từ nhỏ đến lớn, thần đọc sách thánh hiền đều nói đến đạo quân thần ở trên đạo cha con, chứ chưa bao giờ nghe thấy nói đạo cha con ở trên đạo vua tôi, nay xem đôi câu đối, thần không thể ngăn được lòng bất mãn”. Vua Tự Đức nghe Quát nói có lý và đã biết tiếng Quát học giỏi, liền phán “Nếu vậy phải sửa sao cho đúng phép?”. Ông Quát bèn đưa ra vế đối “Quân ân, thần khả báo/ Phụ nghiệp, tử năng thừa” Ơn vua, tôi phải trả/ Nghiệp cha, con phải theo. Vua chịu là hay, nhưng lòng tự ái của vua bị bề tôi vô lễ và lòng tự ái của một nhà thơ bị sửa văn, nhà vua không vui. Khu thờ Cao Bá Quát ở làng Sủi làng Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Ảnh Wikimapia. Một lần khác, vua Tự Đức lại khoe với các quan đêm hôm trước nằm mơ được hai câu thơ đặc biệt “Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ/ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai”. Các quan đều nức nở cho là lạ, thơ chữ Hán kèm tiếng Nôm, rõ nghĩa mà có hình ảnh tân kỳ, chắc là tiên thánh nào ban cho, hoặc nhà vua nghĩ được câu thần cú. Chỉ có Cao Bá Quát lên tiếng “Tâu bệ hạ, câu thơ ấy là thơ cũ đấy ạ. Nguyên là hai câu 3, 4 ở một bài thơ thần đã được nghe”. Vua ngạc nhiên, thơ mình nghĩ ra, sao dám nói thơ cũ? Tuy nhiên, sau đó Cao Bá Quát đọc một bài "thất ngôn bát cú" vô cùng logic, trong đó có chứa hai câu thơ của vua. Vua Tự Đức phải tấm tắc khen hay. Ông biết rõ bài thơ do Cao Bá Quát bịa ra, mà lại ngang nhiên trêu chọc cả đức vua. Tài cao nhưng cuộc đời lắm gian truân Năm 1841, Cao Bá Quát được cử làm giám khảo một khoá thi ở Thừa Thiên. Trong khi chấm bài, ông thấy có bài văn thật hay mà lại phạm lỗi nhỏ. Nghĩ đến thân phận mình từng bị đánh rớt vì phạm trường quy nên muốn giúp cho người học giỏi không may mắn, ông dùng muội đèn để sửa và chấm bài đó điểm cao. Chẳng may việc phát giác, ông bị giam cầm gần 3 năm, chịu nhiều nhục hình tra tấn. Cũng vì tính kiêu ngạo, Cao Bá Quát không được lòng nhiều quan lớn, kể cả nhà vua, nên bị đầy đi làm giáo thụ ở Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Khoảng năm 1854-1855, ông tham gia cuộc nổi dậy ở Sơn Tây để chống lại triều đình đương thời. Tuy nhiên, cuộc chiến thất bại, Cao Bá Quát bị bắt và bị lệnh xử tử, chu di 3 đời. Tuy nhiên, sự thật về cái chết của ông vẫn là một nghi vấn mà người đời nay chưa thể làm sáng tỏ. Tống Hoa tổng hợp Cao Bá Quát thánh Quát thiên tài Cao Bá Quát chuyện về Cao Bá Quát Bạn có thể quan tâm Câu hỏi Đối Nước trong leo lẻo, cá đớp cáĐối lại Trời nắng chang chang, người trói người Ice 25 tháng 9 2016 lúc 1508 Nước trong leo lẻo cá đớp cá Xem chi tiết mot cuoc thi chay tiep suc VONG TRONgom nhieu chang biet rang chu vi duong tron do la 330m,moi chang dai 75m,dia diem xuat phat va ket thuc o cung mot se co it nhat bao nhieu chang Xem chi tiết Bài 1 Gạch dưới những từ dùng để chỉ tính chất của sự vật trong đoạn vănTừ trên cao nhìn xuống , phố xá Hà Nội nhỏ xinh như mô hình triển lãm . Những ô ruộng , những gò đống , bãi bờ với những mảng màu xanh , nâu , vàng , trắng và nhiều hình dạng khác nhau gợi những bức tranh giàu màu 2 Tìm các tính từ có trong khổ thơ thơ sau Việt Nam đẹp khắp trăm miềnBốn mùa một sắc trời riêng đất nàyXóm làng , đồng ruộng , rừng câyNon cao gió dựng , sông đầy nắng changSum sê xoài biếc , cam vàn...Đọc tiếp Xem chi tiết Ta da biet trong he so ghi so thap phan ,cu muoi don vi o mot hang thi lam mot trong muoi gia tri So abcd trong he thap phan co gia tri bang Co mot he so cu hai don vi o mot hang thi lam thanh mot don vi o hang tren lien truoc do la he nhi phan moi chu trong he hai gia tri nhi phan chang han abcd ,mot trong hai gia tri 0va 1 mot so trong he thap phan chang han abcd duoc ki hieu abcd Xem chi tiết Chung minh rang dang toan abcabc luon chia het cho 11 chang han 32832811 Xem chi tiết cho M latrung diem cua AB,N la trung diem cua BC9 A,B,Chang hangchung minh 2MN =AB-BC Xem chi tiết Chung to rang so co dang aaa aaa bao gio cung chia het cho 11 chang han 333333 chia het cho 11 Xem chi tiết Con gi co thit ko xuongĐang trong nang dai ,mua tuon chang nehien ngang đô nuoc thuy têGiu cho dong ruông bon be xanh tuoiLa con gi? Xem chi tiết Tim x biet x^50 = xChang quan trong nhung toi se thu tai cai thang Lien Hong Phuc de coi no co dam tra loi chtt nua ko. Neu no tra loi dung thi toi se tick luon cho no. Xem chi tiết Cao Bá Quát là người rất bản lĩnh. Ông dù sống một đời thanh bần nhưng luôn coi thường những kẻ khom lưng, luồn cúi để được giàu sang phú quý, và là người thường tự tin rằng có thể thay đổi được vận mệnh của đời mình. Ảnh tổng hợp Cao Bá Quát nhân tài kiệt xuất trời Nam, một con người nổi tiếng văn hay chữ tốt được dân gian tôn xưng là “Thánh Quát”. Quá tài giỏi nhưng vì khí khái kiêu căng, ngạo nghễ nên cuộc đời ông gặp đầy gian truân, trắc trở… Cao Bá Quát 1809 – 1854 tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Thiên, là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là văn tài xuất chúng của nước ta vào thế kỷ XIX. Ngay từ thuở nhỏ, Bá Quát đã nổi tiếng học giỏi nên được mọi người coi như thần đồng. Xem thêm Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng. Phần 2 Lạc Long Quân và Thần tích con Rồng cháu Tiên Tự buộc tóc lên trần nhà, cùm chân vào án thư để luyện chữ Là người thông minh từ nhỏ, năm 12 tuổi, Cao Bá Quát đã theo các bậc đàn anh lều chõng đi thi. Khi còn đi học ở phủ Bắc Ninh, Cao Bá Quát nổi tiếng về tài văn thơ, đối đáp thông minh và tài họa, nhưng lại viết chữ rất xấu. Xấu hổ với chữ viết như gà bới, đêm đến, ông thường thức khuya miệt mài tập viết chữ. Buồn ngủ quá, ông tự buộc tóc mình lên mái nhà để mỗi lần ngủ gật bị giật tóc đau, phải tỉnh lại. Ông còn buộc chân vào án thư để không thể “chạy đi chơi” được. Nhờ sự quyết tâm, kiên nhẫn, một thời gian sau, từ viết chữ xấu, Cao Bá Quát đã nổi tiếng khắp vùng về biệt tài viết chữ đẹp. Tương truyền, chữ viết của ông như “rồng bay phượng múa”, bút tích còn lại hiện nay được lưu lại trong bài đề tựa cuối cùng của “Mai Am thi tập” của công chúa Lại Đức, con gái vua Minh Mạng. Không những viết chữ đẹp, Cao Bá Quát còn có tài văn thơ nức tiếng. Ông có thể “xuất khẩu thành thơ”, làm vế đối mọi lúc mọi nơi, ý tứ rất chuẩn mực, sắc sảo. Tài năng văn chương của Cao Bá Quát khiến ngay cả ông vua hay chữ Tự Đức cũng phải thán phục. Vua trực tiếp ca ngợi Cao Bá Quát và người bạn vong niên của ông là Nguyễn Văn Siêu rằng “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”, nghĩa là Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, đời tiền Hán không có ai bằng. Tuy vậy, Cao Bá Quát là người không mấy may mắn trên con đường công danh khoa cử. Năm Minh Mệnh thứ 12 1831, ông thi Hương ở trường Hà Nội, đậu Á nguyên Cử nhân, tức là đỗ thứ nhì trong kỳ thi đó. Nhưng khi bài thi bị duyệt lại vì có lỗi, Cao Bá Quát bị đánh tụt xuống cuối bảng. Vào kinh để thi Hội nhiều lần, ông đều bị đánh trượt. Không những viết chữ đẹp, Cao Bá Quát còn có tài văn thơ nức tiếng. Ông có thể “xuất khẩu thành thơ”, làm vế đối mọi lúc mọi nơi, ý tứ rất chuẩn mực, sắc sảo. Ảnh qua Chuyện cá nuốt cá, người trói người... Chuyện kể rằng khi còn bé, Cao Bá Quát ra tắm ở Hồ Tây. Đúng vào lúc vua Minh Mệnh tuần du ở ngoài bắc, nhà vua cũng đến Hồ Tây xem phong cảnh. Ngự giá đi qua, tàn lọng rợp trời, gươm đao sáng quắc, ai cũng phải tránh xa, riêng cậu Quát cứ tự do vùng vẫy. Lính đến bắt lôi lên bờ, cậu cứ trần truồng đến trước mặt vua, tự khai là học trò, vì trời nóng nực quá nên ra hồ tắm mát. Vua nhìn xuống hồ thấy có con cá lớn đang đuổi đàn cá con, liền đọc một câu đối, bảo nếu đúng Quát là học trò thì phải đối được, sẽ tha không đánh đòn; vua đọc “Nước trong leo lẻo, cá đớp cá”. Bá Quát bèn ứng khẩu đối ngay “Trời nắng chang chang, người trói người”. Vua và đoàn tùy tùng nghe xong đều khen hay và tha cho Bá Quát. Cao Bá Quát chơi khăm “ngài” lý trưởng... Ở làng Cao Bá Quát có viên lý trưởng có tiếng là hay nhũng lạm. Dân làng chê trách nhưng không ai dám chỉ trích công khai. Cao Bá Quát tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cũng biết chung mối bất bình với dân chúng. Nhân có hội làng, dân làng cho đắp đôi con voi thờ dựng trước cửa đình, mà tiền đắp voi chủ yếu là do vị lý trưởng kia bỏ ra lấy tiếng là làm công đức nhưng thực chất là mua danh. Bá Quát liền rủ chúng bạn ra xem rồi lựa lúc vắng vẻ lấy bút viết luôn vào lưng voi bài thơ như sau “Khen ai rõ khéo đắp đôi voi Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi Chỉ có cái kia sao chẳng đắp Hay là thầy Lý bớt đi rồi?” Bá Quát liền rủ chúng bạn ra xem rồi lựa lúc vắng vẻ lấy bút viết luôn vào lưng voi một bài thơ. Ảnh minh hoạ Commons Wikimedia Cao Bá Quát ước đời như Nghiêu, Thuấn Một lần Cao Bá Quát đến nghe bình văn ở một trường Đốc. Nghe đọc những câu văn tầm thường, ông cứ lắc đầu và còn bịt mũi tỏ ra khó chịu. Lính bèn bắt Cao Bá Quát vào giao nộp cho quan đốc học. Quát xưng là học trò. Hỏi học với ai, ông trả lời – Tôi học với ông Trình ông Chu. Trình, Chu là hai vị học giả vào hàng tôn sư trong đạo Nho. Quát trả lời như vậy là tỏ ra mình học cùng với các bậc Thánh hiền, học từ gốc chứ không thèm học ngọn! Quan đốc giận lắm, ra câu đối bắt Quát phải đối ngay – “Nhĩ tiểu sinh hà xứ đáo lai, cảm thuyết Trình Chu sự nghiệp”? Tạm dịch là Chú bé này ở đâu đến đây, dám nói đến sự nghiệp ông Trình, ông Chu to lớn? Cậu Quát bèn lập tức đối lại – “Ngã quân tử kiến cơ nhi tác, dục vi Nghiêu Thuấn quân dân”. Tạm dịch Người quân tử gặp thời làm việc, muốn quân dân đều được như đời Thuấn, đời Nghiêu. Quan đốc phục tài, nhất là cảm cái chí hướng lớn lao của con người trẻ tuổi này. Ông đã không giận mà còn thưởng cho Cao Bá Quát. Cao Bá Quát kết bạn vong niên với Nguyễn Siêu Thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Siêu nổi tiếng là hay chữ. Được biết ông Siêu dạy học ở Hà Nội, Cao Bá Quát liền từ Bắc Ninh sang Hà Nội, tìm đến trường của ông Siêu dạy để nghe giảng bài. Bá Quát tới nơi, đứng cửa sổ dòm vào, thấy một ông đồ khoảng 25, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng tre cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất, chứng tỏ là một lớp học nghèo. Thầy đồ Siêu nhìn thấy một anh chàng trẻ tuổi chừng mười lăm, mười sáu, thơ thẩn đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, bèn hỏi – Anh đi đâu mà đứng ở đây? Bá Quát trả lời – Tôi là học trò đi qua trường, thấy thầy giảng văn muốn xin thầy cho vào nhập học. Ông Siêu muốn thử tài học của Bá Quát, bèn nói – Nếu thật anh là học trò, thì anh đối thử vế đối này xem sao “Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két”. Tạm dịch là Ông thầy ngồi trên chõng, kêu cót két, két cót, cót cót két két. Bá Quát liền đối lại “Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ”. Tạm dịch trò nhỏ vào sân trường, đi thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ. Nguyễn Văn Siêu nghe thấy vế đối tài tình rất phục, mời vào trong ngồi, hỏi tên tuổi và lai lịch mới biết là Cao Bá Quát ở Bắc Ninh, là người mà ông đã nghe tiếng đồn là thần đồng. Kể từ đó về sau hai người đi lại thăm hỏi nhau luôn và trở thành đôi bạn vong niên thân thiết. Kể từ đó về sau hai người đi lại thăm hỏi nhau luôn và trở thành đôi bạn vong niên thân thiết. Ảnh minh hoạ Wikipedia Đèn nhà ai nhà nấy rạng... Chuyện kể rằng Cao Bá Quát có dịp vào Quảng Nam, đến thăm nhà một cụ đồ sau này là thân sinh ông Nguyễn Hiển Dĩnh. Nhiều người nghe tiếng ông giỏi thơ văn nên đã đến xin chữ. Một người làm đôi đèn lồng để thờ mẹ, xin ông cho một đôi câu đối chữ Nôm. Ông Quát viết luôn vào đôi đèn lồng hai câu rất tài tình như sau “Trước mẹ dạy con gió chiều nào che chiều ấy, con dạ. Giờ con thờ mẹ đèn nhà ai rạng nhà nấy, mẹ ơi!” Người đời đều khen tụng là cặp câu đối rất hay, dùng toàn thành ngữ dân gian mà lại rất tương hợp với hoàn cảnh của chủ nhân cũng như ý nghĩa và công dụng của cái đôi đèn thờ. Bản tấu trình hiểm hóc... Nhờ có tài văn chương, tuy chức phận thấp, Cao Bá Quát vẫn thường được nhiều người coi trọng, kể cả nhà vua. Chuyện kể rằng một hôm có hai vị quan trong triều là Phan Văn Nhã và Võ Văn Khải đánh nhau vì chuyện văn chương. Ông Khải xem bài văn của ông Nhã, chê kém và nói “Văn như thế chó nó cũng làm được”. Thế là hai bên sinh sự. Cao Bá Quát vì có chứng kiến việc này nên vua Tự Đức bắt viết tờ tấu trình cho vua rõ đầu đuôi. Vậy là Cao Bá Quát cứ “sự thực tường khai” như sau “Quát quá Nhã gia Nhã hô Quát! Quát! Quát lai ẩm Thủ bất tri Vĩ bất tri Bất tri như hà Chỉ kiến lưỡng tương đấu khẩu Bỉ viết cẩu Thử diệc viết cẩu Thượng hạ giai cẩu Lưỡng tương đấu ẩu Thần kiến thế nguy Thần cụ thần tẩu”. Mấy câu thơ trong bản tấu trình trên tạm dịch là “Quát qua nhà Nhã Nhã gọi Quát! Quát! Quát đến uống Đầu không biết Cuối không biết Chẳng biết vì sao Chỉ thấy hai bên cãi cọ… Bên này rằng chó Bên kia cũng chó Trên dưới đều chó Hai bên đấu võ Thần thấy thế nguy Thần sợ thần chạy!” Vua Tự Đức đọc tới câu “Thượng hạ giai cẩu”, biết là Cao Bá Quát lợi dụng lời khai để chơi khăm cả nhà vua, nhưng vì lời khai hay và đúng sự thực quá nên cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Chân dung vua Tự Đức, vị vua thứ tư của triều Nguyễn. Ảnh Wikipedia Cả gan mà vuốt râu hùm... Thời Bá Quát còn làm quan đương triều, Vua Tự Đức thường cứ nghĩ ra những trò văn chương độc đáo để khoe tài với các quan. Một lần, ông nói với họ – Đêm qua, trẫm nằm mơ thấy hai câu thơ thật đặc biệt “Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai” Ý tứ là Trong vườn chim oanh hót giọng “khề khà”; Ngoài đồng hoa đào nở “lấm tấm”. – Các khanh thấy thế nào? Các quan đều nức nở khen thơ hay và lạ, hai câu thơ có chữ Hán kèm tiếng Nôm, rõ nghĩa mà có hình ảnh tân kỳ, chắc là Tiên Thánh nào ban cho, hoặc nhà vua nghĩ được câu Thần cú. Chỉ có Cao Bá Quát quỳ tâu – Tâu bệ hạ, câu thơ ấy là thơ cũ đấy ạ! Nguyên là hai câu 3, 4 ở một bài thơ thần đã được nghe. Vua ngạc nhiên lắm, thơ mình nghĩ ra kia mà! viên quan họ Cao này sao dám nói là thơ cũ? Nhưng vua cũng bình tĩnh bảo – Nếu khanh đã nghe cả bài thì đọc thử xem Cao Bá Quát bèn đọc tức thì “Bảo mã tây phong huếch hoác lai Huênh hoang nhân tự thác đề hồi Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai Xuân nhật bất văn sương lộp bộp Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài Khù khờ thi tứ đa nhân thức Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”... Tạm dịch là “Gió tây ngựa huếch hoác về Huênh hoang người cũng tự đi theo vào Khề khà oanh hót vườn nao Đồng quê lấm tấm muôn đào nở hoa Xuân không lộp bộp sương sa Ngày thu chỉ thấy trời mưa bài nhài Khù khờ thơ đã cũ rồi Ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ”... Đức vua bị một “đòn” đau quá. Ông biết rõ Cao Bá Quát bịa ra, mà lại ngang nhiên trêu chọc ông “Khù khờ thơ đã cũ rồi, ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ”. Nhưng ngoài mặt nhà Vua vẫn phải khen hay – vì đúng là thơ của Bá Quát hay thật, và sai lính mang trà tặng thưởng Cao Bá Quát. Chân dung Cao Bá Quát. Ảnh qua Tiếc cho một nhân tài... Cao Bá Quát là người rất bản lĩnh. Ông dù sống một đời thanh bần nhưng luôn coi thường những kẻ khom lưng, luồn cúi để được giàu sang phú quý, và là người thường tự tin rằng có thể thay đổi được vận mệnh của đời mình. Khi ra làm quan, Cao Bá Quát muốn đem tài năng giúp đời, nhưng rồi sớm nhận ra có những vấn đề không thể thay đổi được. Những lúc cảm thấy như bất lực trước thời cuộc ấy, ông muốn hưởng an nhàn. Nhưng khi chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân ông lại không thể. Cuối cùng, con đường mà Cao Bá Quát lựa chọn là tham gia khởi nghĩa nông dân. Triều Nguyễn càng về cuối càng suy tàn. Năm 1850, Cao Bá Quát được triều đình cử đi giữ chức Giáo Thụ ở Quốc Oai Sơn Tây. Năm 1853 các tỉnh Sơn Tây, Kinh Bắc bị nạn châu chấu cắn lúa, dân đói khổ, nổi loạn. Ông từ chức, lấy cớ hồi hương nuôi mẹ già rồi liên lạc với các nhóm nghĩa quân, lại bầu Lê Duy Cự tức Duy Đồng, tự xưng là cháu bốn đời của Lê Hiển Tông lên làm Minh chủ, còn mình thì làm Quốc sư. Nghĩa quân phát động khởi nghĩa ở Mỹ Lương, tức Chương Mỹ và Lương Sơn, Bắc Ninh, tiến đánh vùng Hà Nội, Sài Sơn Sơn Tây nhưng mấy tháng sau thua trận phải rút về Mỹ Lương. Tháng 11 năm 1854 ông mất. Về cái chết của Cao Bá Quát có nhiều thuyết khác nhau. Một số người tin rằng ông bị bắt, giải về Hà Nội rồi đưa vào giam ở Huế trước khi bị đem ra xử trảm, Trong thời gian bị giam trong ngục ông có làm đôi câu đối nổi tiếng “Một chiếc cùm lim chân có đế, Ba vòng dây xích bước còn vương”. Dựa vào văn phong, người ta có thể tin đôi câu đối trên là do ông sáng tác. Song theo cuốn chính sử của nhà Nguyễn – “Đại Nam Thực lục chính biên” thì cho hay “Năm 1854 ông bị suất đội Đinh Thế Quang hại chết. Vua Tự Đức hạ lệnh bêu đầu ông khắp các tỉnh miền Bắc rồi bổ ra ném xuống sông. Sau Quang được thăng lên Cai đội”. Như vậy là ông chết trận chứ không hề bị giam cầm. Cũng có thuyết nói ông bị bắt và tự sát trên đường giải về Kinh. Có lẽ người ta đã nhầm ông với người anh song sinh của ông là Cao Bá Đạt khi ấy đang làm Tri huyện Nông Cống Thanh Hóa, vì em làm phản mà bị vạ lây, bị bắt giải về kinh đô, giữa đường Bá Đạt cắn ngón tay viết bản trần tình rồi tự tử. Sau khi Cao Bá Quát qua đời, các tác phẩm của ông bị triều đình tiêu hủy khá nhiều. Hiện nay còn giữ lại được khoảng bài thơ và 21 bài văn xuôi. Đường Phong - Tài liệu tham khảo Wikipedia và một số nguồn tư liệu lịch sử khác.. Xem thêm Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng hay Những dấu ấn của Thần triển hiện ở cõi Nam Phần 1 Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng. Phần 3 Hùng Huy Vương khinh nhờn Thần linh mà suýt mất nước Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng. Phần 4 Hùng Chiêu Vương - vua Thánh tu thân mà trị quốc Truyền kỳ về 18 đời vua Hùng. Phần 5 Hùng Tuyền Vương - vị quân chủ cuối cùng của nền văn minh Thần truyền

trời nắng chang chang người trói người